Tóm tắt các tác phẩm văn xuôi 12

20:16 |


TÓM TẮT TÁC PHẨM VĂN XUÔI LỚP 12

Tóm tắt truyện Vợ chồng A Phủ – Tô Hoài ( in trong tập Truyện Tây Bắc, 1953) :

Vợ chồng A phủ kể về đôi vợ chồng người H’ Mông ở vùng Tây Bắc. Mỵ là một cô gái xinh đẹp có tài thổi sáo. Trai bản nhiều người mê và Mỵ đã có người yêu . Dù cha Mị nợ thống lí Pá Tra một món tiền lớn, chưa trả nổi, hằng năm phải trả lãi cả một nương ngô nhưng Mị kiên quyết không lấy A Sử -con trai thống lý Pá Tra- để xoá nợ. Nhưng một đêm xuân, Mị bị A Sử lừa, bắt về trình ma nhà nó. Tiếng gọi là làm vợ A Sử nhưng Mị bị đối xử thậm tệ.

Ban đầu, Mị định tự tử nhưng vì thương cha đành cam chịu sống trong đau khổ, câm lặng “lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”.

*
Ngày Tết lại về, Mị lén uống rượu một mình. Không khí vui nhộn, nhất là tiếng sáo gọi bạn tình đã giúp Mị nhớ lại những ngày trước, khơi dậy ở Mị khát vọng tình yêu hạnh phúc. Mị vào buồng, định thay váy áo đi chơi thì bị A Sử bắt trói đứng vào cột nhà, bằng cả thúng dây đay, cả tóc Mị. Trong cơn chập chờn mê tỉnh, Mị vẫn thả hồn theo các cuộc chơi. Đến lúc thích chí vùng bước đi mới biết toàn thân bị trói chặt, đau buốt.

Cũng đêm đó, A Phủ, một thanh niên mồ côi nhưng khoẻ mạnh, can trường, đã đánh A Sử, vì bất bình trước trò xấc xược của hắn ta. A Phủ bị làng bắt về xử tội và trở thành người ở trong nhà Pá Tra để trừ nợ.

*

Một mùa đông giá rét, rừng đói, hổ báo từng đàn ra phá nương, bắt bò ngựa . A Phủ vì mải mê bẫy nhím nên đã để hổ bắt mất một con bò. A Phủ bị thống lí Pá Tra bắt trói đứng vào một cây cột, suốt mấy ngày đêm- chờ khi nào A Sử bắn được hổ mới tha.

Lúc ấy, tuy Mị đã trở thành một con người đờ đẫn, vô cảm nhưng khi nhìn thấy hai dòng nước mắt của A Phủ lặng lẽ rơi trên hai hóm má xám đen vì kiệt sức, tuyệt vọng, Mị động lòng thương người cùng cảnh ngộ. Sau một hồi suy nghĩ, Mỵ đã cắt dây trói cho A Phủ. Rồi, Mị vụt chạy theo anh ta.

*

Cả hai băng rừng sang Phiềng Sa, trở thành vợ chồng. Quân Pháp tràn tới, dân làng hoang mang lo sợ. A Châu, cán bộ Đảng đã tìm đến xây dựng phong trào và kết nghĩa anh em với A Phủ. A Phủ đã trở thành tiểu đội trưởng du kích, cùng với Mị và đồng đội tích cực tham gia chống Pháp và tay sai bảo vệ quê hương .



Tóm tắt VỢ NHẶT (1955) – Kim Lân (in trong tập Con có xấu xí, 1962)
Giữa lúc xóm ngụ cư xơ xác, tiêu điều trong nạn đói đầu năm 1945, vào một buổi chiều tà, Tràng- một người nông dân nghèo, luống tuổi, thô kệch, lại dở hơi- dẫn một người phụ nữ về nhà.

Vì đang lâm cảnh ngộ đói rách cùng đường nên chỉ qua vài lần gặp gỡ với một vài câu nói đùa, rồi cắm đầu ăn một chặp hết bốn bát bánh đúc do Tràng “chiêu đãi”, người phụ nữ này ưng thuận theo không anh về nhà

Mẹ Tràng (bà cụ Tứ) đón nhận người con dâu trong tâm trạng vừa buồn vừa mừng, vừa lo âu, vừa hi vọng nhưng không hề tỏ ra rẻ rúng người phụ nữ đã theo không con mình.

Đêm tân hôn của họ diễn ra trong không khí chết chóc, tủi sầu từ xóm ngụ cư vọng tới



Sáng hôm sau, một buổi sáng mùa hạ, nắng chói lói. Bà cụ Tứ và cô dâu mới xăm xắn dọn dẹp, quét tước trong ngoài. Trước cảnh ấy, Tràng cảm thấy mình gắn bó và có trách nhiệm với cái nhà của mình và thấy mình nên người, trông người vợ đúng là một người phụ nữ hiền hậu đúng mực, không còn vẻ gì chao chát chỏng lỏn như lần đầu gặp nhau. Bà cụ Tứ hồ hởi đãi hai con vài bát cháo loãng và một nồi chè cám.

Qua lời kể của người vợ, Tràng dần dần hiểu được Việt Minh và trong óc Tràng hiện lên hình ảnh đám người đói kéo nhau đi phá kho thóc Nhật, phía trước là một lá cờ đỏ bay phất phới.



Tóm tắt RỪNG XÀ NU ( 1965)- Nguyễn Trung Thành

Truyện kể về một làng ở Tây Nguyên- làng Xô Man- nằm giữa cánh rừng xà nu bạt ngàn, đang từng ngày hứng chịu những trận những trận đại bác của đồn giặc.

Chuyện chính thức bắt đầu bằng việc Tnú trở về thăm làng sau ba năm tham gia lực lượng Giải phóng quân. Thằng bé Heng dẫn đường cho Tnú vì đường vào làng nay đã bố phòng nghiêm ngặt: hầm chông, hố chông, dàn thò chằng chịt….

Đêm đó, Tnú ăn cơm và ở lại nhà cụ Mết. Cả làng tụ họp, Dít kiểm tra giấy phép xong, cụ Mết tự hào kể lại cho mọi người nghe trang sử đấu tranh đồng khởi của làng, gắn bó sâu sắc với cuộc đời Tnú.

*

Hồi ấy, Mỹ- Diệm khủng bố dữ dội, nhưng làng vẫn bí mật nuôi giấu cán bộ (anh Quyết). Tuy còn nhỏ tuổi, Tnú và Mai được giao làm liên lạc cho anh Quyết, rồi được anh Quyết dạy chữ.

Một lần, trong chuyến đưa thư của anh Quyết lên huyện, Tnú bị địch phục bắt, bị tra tấn nhưng anh nhất quyết không khai báo. Ở tù ba năm, Tnú vượt ngục trở về làng thay anh Quyết lãnh đạo buôn làng tích cực chuẩn bị vũ trang khởi nghĩa và kết hôn cùng Mai.



Tin làng Xô Man chuẩn bị vũ khí chờ thời cơ nổi dậy đến tai giặc. Thằng Dục đưa lính đến lùng sục vây ráp. Cụ Mết, Tnú, cùng thanh niên lánh vào rừng. Không bắt được Tnú, bọn giặc bắt Mai với đứa con nhỏ chưa đầy tháng của hai người đánh đập dã man.

Từ vị trí ẩn nấp, Tnú chứng kiến cảnh vợ con bị giặc hành hạ, Tnú nhảy xổ vào cứu vợ con, rồi bị chúng bắt, Mai và đứa con chết. Bọn giặc tẩm nhựa Xà nu đốt mười đầu ngón tay anh để khủng bố tinh thần dân làng.

Tnú kiên cường chịu đựng quyết không kêu la. Có tiếng động chung quanh, Tnú thét lên một tiếng, dân làng đồng thanh, nhất tề nổi dậy, thằng Dục và tiểu đội ác ôn đã bị cụ Mết và thanh niên diệt gọn. Làng Xô Man đồng khởi thắng lợi. Tnú gia nhập Giải phóng quân. Anh dũng cảm lập chiến công, được cấp chỉ huy cho về phép thăm làng một đêm.

Sáng hôm sau, Cụ Mết, Dít tiến anh lên đường . Họ chia tay nhau ở đồi xà nu, cạnh con nước lớn.

Tóm tắt truyện Những đứa con trong gia đình – Nguyễn Thi (2/1966)

Chuyện kể về hai chị em Chiến – Việt, những đứa con trong một gia đình có nhiều mất mát, đau thương: cha bị Pháp chặt đầu hồi chín năm, mẹ vừa bị đại bác Mĩ bắn chết. Khi hai chị em Chiến – Việt trưởng thành, cả hai đều giành nhau tòng quân. Nhờ sự đồng tình của chú Năm, cả hai đều được nhập ngũ và ra trận.

Trong trận đánh ác liệt tại một khu rừng cao su, Việt diệt được một xe bọc thép đầy Mĩ và sáu tên Mĩ lẻ nhưng anh cũng bị thương nặng, lạc đồng đội, một mình nằm lại chiến trường khi còn ngổn ngang dấu vết của đạn bom và chết chóc. Việt ngất đi, tỉnh lại nhiều lần. Mỗi lần tỉnh lại, Việt hồi tưởng về gia đình, về những người thân yêu như mẹ, Chú Năm, chị Chiến… .

Đoạn trích thể hiện lần tỉnh dậy thứ tư của Việt trong đêm thứ hai. Tuy mắt không nhìn thấy gì, tay chân đau buốt, tê cứng nhưng Việt vẫn trong tư thế sẵn sàng chiến đấu và cố gắng từng tí một lê về phía có tiếng súng của quân ta vì phía đó “là sự sống”.

Việt hồi tưởng lại những sự việc xảy ra từ sau ngày má mất. Cả hai chị em đều háo hức tòng quân, nhưng Chị Chiến nhất định giành đi trước vì cho rằng Việt chưa đủ 18 tuổi. Đến đêm mít tin, Việt nhanh nhảu ghi tên mình trước. Chị Chiến chậm chân và “bật mí” chuyện Việt chưa đầy 18 tuổi. Nhờ chú Năm đứng ra xin giúp, Việt mới được tòng quân. Đêm hôm ấy, chị Chiến bàn bạc với Việt về mọi việc trong nhà. Việt răm rắp chấp nhận mọi sự sắp đặt của chị Chiến, vì Việt thấy chị Chiến nói giống má quá chừng.

Sáng hôm sau, hai chị em khiêng bàn thờ má sang gửi nhà chú Năm. Việt cảm thấy lòng mình “thương chị lạ”.

Sau ba ngày đêm, đơn vị đã tìm thấy Việt. Anh được đưa về điều trị tại một bệnh viện dã chiến; sức khoẻ hồi phục dần. Anh Tánh giục Việt viết thư cho chị kể lại chiến công của mình. Việt rất nhớ chị, muốn viết thư nhưng không biết viết như thế nào vì Việt cảm thấy chiến công của mình chưa thấm gì so với thành tích của đơn vị và mong ước của má.

TÓM TẮT CỐT TRUYỆN CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA (1983, NGUYỄN MINH CHÂU)
Theo yêu cầu của trưởng phòng, nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng đến một vùng ven biển miền Trung (cũng là nơi anh từng chiến đấu) để chụp một tấm ảnh cho cuốn lịch năm sau. Sau nhiều ngày “phục kích”, người nghệ sĩ đã phát hiện và chụp được “một cảnh đắt trời cho” – đó là cảnh một chiếc thuyền ngoài xa đang ẩn hiện trong biển sớm mờ sương. Nhưng khi chiếc thuyền vào bờ, anh đã ngạc nhiên đến sững sờ khi chứng kiến từ chính chiếc thuyền đó cảnh người chồng vũ phu đánh đập vợ một cách dã man, đứa con vì muốn bảo vệ mẹ đã đánh trả lại cha mình.

Những ngày sau, cảnh tượng đó lại tiếp diễn và lần này người nghệ sĩ đã ra tay can thiệp . . . Theo lời mời của chánh án Đẩu (một người đồng đội cũ của Phùng) người đàn bà hàng chài đã đến toà án huyện. Tại đây, người đàn bà ấy đã từ chối sự giúp đỡ của Đẩu và Phùng, nhất quyết không bỏ lão chồng vũ phu. Chị đã kể câu chuyện về cuộc đời mình và đó cũng là lí do giải thích cho sự từ chối trên. Rời vùng biển với khá nhiều ảnh, người nghệ sĩ đã có một tấm được chọn vào bộ lịch “tĩnh vật hoàn toàn” về “thuyền và biển” năm ấy. Tuy nhiên, mỗi lần đứng trước tấm ảnh, người nghệ sĩ đều thấy hiện lên cái màu hồng hồng của ánh sương mai và nếu nhìn lâu hơn bao giờ anh cũng thấy hình ảnh người đàn bà nghèo khổ, lam lũ bước ra từ tấm ảnh.


HỒN TRƯƠNG BA DA HÀNG THỊT - 1981 (Lưu Quang Vũ)


Trương Ba, gần 60 tuổi- là một người làm vườn tốt bụng, đặc biệt rất cao cờ. Do tắc trách, Nam Tào gạch bừa tên Trương Ba, khiến ông phải chết oan. Vợ Trương Ba lên Thiên đình kiện. Theo gợi ý của Đế Thích, để sửa sai, Nam Tào cho hồn Trương Ba nhập vào thể xác hàng thịt ở làng bên vừa mới chết, mới ngoài 30 tuổi, để được sống lại, ,.

Trú nhờ thể xác hàng thịt, hồn Trương Ba gặp rất nhiều phiền toái : lí trưởng sách nhiễu, chị hàng thịt đòi chồng; gia đình Trương Ba ngày càng lủng củng. Đặc biệt, sống bằng thân xác hàng thịt, Trương Ba dần dà tiêm nhiễm một số thói xấu và những nhu cầu vốn xa lạ với ông. Gay nhất là chị hàng thịt đòi hỏi Trương Ba phải là người đàn ông thực sự của chị. Lí trưởng nhân đấy sách nhiễu vòi tiền; con trai Trương Ba ngày càng đắc ý, lấn lướt, coi thường bố. Ngược lại, vợ, con dâu, cháu nội Trương Ba không thể chịu nổi và dần dần xa lánh. Trương Ba vô đau khổ.

Trước nghịch cảnh ấy, Trương Ba quyết định trả lại thân xác cho hàng thịt, cũng không chấp nhận nhập vào xác cu Tị , kiên quyết chấp nhận cái chết.

Tóm tắt phần trích giảng truyện ngắn Số phận con người (1957) của Sô-lô-khốp

Chiến tranh kết thúc, Xô-cô- lôp giải ngũ nhưng không muốn trở lại quê nhà. Anh đến chỗ của một đồng đội cũ, xin làm lái xe cho một đội vận tải. Tình cờ anh gặp chú bé Va-ni-a mồ côi, không nơi nương tựa vì bố mẹ em đều đã chết trong chiến tranh. Ngay lập tức, anh quyết định nhận Va-ni-a làm con. Chú bé ngây thơ tin rằng Xô-cô-lốp là bố đẻ của mình. Xô-cô-lôp yêu thương, chăm sóc chú bé thật chu đáo và xem nó là niềm vui lớn, niềm an ủi của mình. Tuy nhiên, anh vẫn bị ảm ảnh bởi những mất mát quá lớn trong chiến tranh. Hằng đêm anh vẫn mơ thấy vợ và các con của mình, « thức giấc thì gối đẫm nước mắt ».

Rồi một chuyện rủi ro xảy ra : xe anh đụng phải con bò và anh bị thu hồi bằng lái, phải chuyển sang làm thợ mộc để kiếm sống. Theo lời mời của một người bạn khác, ở Ka-sa-rư, anh dẫn bé Va-ni-a đến đó với hi vọng chừng nửa năm sau anh được cấp lại bằng lái mới. Dù thế, anh vẫn cố trấn tĩnh, vì không muốn để bé Va-ni-a biết được tâm trạng đau buồn của mình.

Tóm tắt cốt truyện truyện ngắn Thuốc (1919) của Lỗ Tấn
- Chương I: Vợ chồng Hoa Thuyên- chủ một quán trà nghèo- có đứa con trai độc nhất mắc bệnh lao rất nặng. Nhờ có người mách, vào một đêm thu lúc trời chưa sáng hẳn, lão Hoa Thuyên tìm tới pháp trường để mua chiếc bánh bao tẩm máu người vừa chịu án chém về cho con ăn vì cho rằng ăn như thế nó sẽ khỏi bệnh.

- Chương II: Vợ chồng Hoa Thuyên cho bé Thuyên ăn thuốc. Thằng bé thật tiều tuỵ, đáng thương. Vợ chồng Hoa Thuyên đặt hết niềm tin tưởng vào sự hiệu nghiệm của phương thuốc này.

- Chương III: Trời vừa sáng, lúc bé Thuyên ăn thuốc xong, quán trà nhà lão Hoa Thuyên dần đông khách. Câu chuyện của khách xoay quanh hai sự việc. Sự việc thứ nhất là tất thảy bọn họ đều tin tưởng vào công hiệu của phương thuốc bánh bao tẩm máu tươi mà thằng bé vừa ăn . Hai là họ bàn tán về người tù bị chém sáng nay. Qua lời của Cả Khang thì người bị chém tên là Hạ Du người trong địa phương. Hạ Du theo đuổi lí tưởng đánh đổ nhà Mãn Thanh, giành chủ quyền cho người Trung Quốc (Thiên hạ nhà Mãn Thanh chính là của chúng ta). Hạ Du bị bắt vì người bà con tố giác. Trong tù Hạ Du vẫn tuyên truyền tư tưởng cách mạng. Tuy nhiên, tất cả những người có mặt trong quán trà hôm đó không một ai hiểu đúng về Hạ Du. Bọn họ cho Hạ Du là điên, là thằng khốn nạn.

- Chương IV: Vào một buổi sáng Thanh minh năm sau, mẹ Hạ Du và bà Hoa Thuyên cùng đến nghĩa địa (dành cho người nghèo, người tù và người bị chém) viếng mộ con. Hai người mẹ đau khổ bước đầu có sự đồng cảm . Họ rất ngạc nhiên khi thấy trên mộ Hạ Du có một vòng hoa. Mẹ Hạ Du đã bắt đầu hiểu ra việc làm của con bà và tin tưởng những kẻ giết hại Hạ Du nhất định sẽ bị quả báo.

Tóm tắt truyện Ông già và biển cả (1952)của Hê-minh-uê
Nhân vật trung tâm của tác phẩm là Xan-ti-a-gô -một "ông già" đánh cá người Cuba, 74 tuổi .

Suốt 84 ngày liền, ông lão không bắt được một mống cá nào, dân làng chài cho rằng lão đã “đi đứt” vì vận rủi. Cậu bé Ma-nô-lin cũng bị cha mẹ không cho đi câu chung với lão nữa.

Vào ngày thứ 85, lão quyết định ra khơi trước khi trời sáng. Lần này lão đi thật xa, đến tận vùng Giếng Lớn. Khoảng trưa, một con cá lớn cắn câu, kéo thuyền về hướng tây bắc.

Sáng ngày thứ hai, con cá nhảy lên . Đó là một con cá kiếm, lớn đến nỗi trước đây lão chưa từng nhìn thấy. Con cá lại lặn xuống, kéo thuyền chạy về hướng đông.

Sang đến ngày thứ ba, con cá bắt đầu lượn vòng. Dù đã kiệt sức, lão kiên trì thu ngắn dây câu, rồi dốc toàn lực phóng lao đâm chết được con cá, buộc nó vào mạn thuyền dong về. Nhưng chẳng bao lâu nhiều đàn cá mập đánh hơi được đã lăn xả tới. Từ đó đến đêm, lão lại đem hết sức tàn chống chọi với lũ cá mập- phóng lao, vung chày, thậm chí dùng cả mái chèo để đánh- giết được nhiều con, đuổi được chúng đi, nhưng lão biết con cá kiếm của mình chỉ còn trơ lại một bộ xương.

Đến khuya, đưa được thuyền vào cảng, về đến lều, lão vật người xuống giường và chìm vào giấc ngủ , rồi mơ về những con sư tử

TÓM TẮT TRÍCH ĐOẠN ĐỌC HIỂU TRONG SÁCH GIÁO KHOA

Sang đến ngày thứ ba, con cá bắt đầu lượn vòng. Bằng tất cả kinh nghiệm và sự khéo léo lão thận trọng thu dây câu nhưng lão biết vòng tròn còn khá lớn, con cá hãy còn xa tầm tay của lão. Từng tí một lão cố gắng thu hẹp vòng lượn của con cá và phát hiện rằng con cá đã thấm mệt nên liên tục ngoi lên trong lúc bơi.
Sau cú quật đột ngột và cú nảy mạnh ở sợi dây, lão sợ con cá nhảy lên có thể làm văng mất lưỡi câu. Nhưng con cá không nhảy lên mà bắt đầu lượn vòng chầm chậm. Lão cho đó là cơ hội lí tưởng để mình nghỉ ngơi dưỡng sức .

Đến vòng lượn thứ ba, lần đầu tiên lão thấy con cá như một cái bóng đen lướt qua dưới con thuyền, rồi trông thấy rõ hơn khi nó mấp mé mặt nước. Đến vòng lượn tiếp theo, lão trông thấy lưng cá nhưng nó vẫn còn ở xa thuyền. Lão chuẩn bị lao, và thu dần dây câu.Đến mấy vòng lượn sau con cá tiến gần mạn thuyền . Dù đã kiệt sức, lão vẫn giẫm chân giữ dây câu, rồi dốc toàn lực phóng lao đâm vào chỗ hiểm giết chết được con cá. Máu cá loang ra nhuộm sẫm cả vùng nước chung quanh. Con cá chết thẳng đơ, trắng bạc và bồng bềnh theo sóng.
Không thể đưa con cá lên thuyền vì nó quá lớn, lão cẩn thận buộc nó dọc theo mạn thuyền, giương buồm về bến. Lão thật sự hài lòng và tự hào với thành quả lao động của mình.
Read more…

Thuật lại một cách ngắn gọn và đầy đủ các lần Chí Phèo đến nhà Bá Kiến

19:42 |
3 LẦN CHÍ PHÈO ĐẾN NHÀ BÁ KIẾN

Đề bài: Sau khi ở tù về, nhân vật Chí Phèo trong tác phẩm cùng tên của Nam Cao đã đi đến nhà Bá Kiến mấy lần? Anh (Chị) hãy thuật lại một cách ngắn gọn và đầy đủ các lần Chí Phèo đến nhà Bá Kiến. Trong mỗi lần cần làm rõ:

- Hoàn cảnh cụ thể.
- Động cơ thúc đẩy Chí Phèo đến nhà Bá Kiến? Từ đó, anh (chị) hãy nêu một vài suy nghĩ về giá trị tác phẩm Chí Phèo.
Xem thêm
Ôn thi Đại Học - Bi kịch chí phèo
Phân tích tác phẩm Chí Phèo - Phân tích Chí Phèo
Phân tích nhân vật Chí Phèo trong truyện ngắn "Chí Phèo" của nhà văn Nam Cao
Giải mã Chí Phèo
Truyền kỳ Chí Phèo

GỢI Ý LÀM BÀI

Thân bài (Ý I lần thứ nhất):

- Sau khi ở tù về một ngày, Chí Phèo đã ra chợ uống rượu với thịt chó từ trưa đến chiều, "say k hướt" rồi ngật ngưỡng, hung hăng cầm vỏ chai đến nhà Bá Kiến gọi tên liên tục ra mà chửi. Cụ Bá chưa về. Con trai Cụ là Lý Cường nổi tiếng hách dịch đã xông ra đánh nhau với Chí Phèo. Chí Phèo vừa rạch mặt ăn vạ, vừa kêu làng như bị người ta cắt cổ họng "Ối làng nước ôi! Cứu tôi với....ối làng nước ôi! Bố con thằng Lý Kiến nó đâm chết tôi...làng nước ơi!". Giữa lúc đó, Cụ Bá về. Cụ cất tiếng hỏi rất sang: "Cái gì mà đông thế này?" Nhưng khi thoáng nhìn thấy cảnh Chí Phèo "Nằm dài, k hông nhúc nhích, rên k he k h ẽ như gần chết", cụ Bá đã biết cơ sự rồi. Một mặt, Cụ dịu giọng bảo mọi người đứng xem hãy trở về nhà mình, một mặt khác cuúi xuống dỗ dành ngọt ngào Chí Phèo. Cuối cùng, Chí Phèo đã theo Bá Kiến vào nhà, được cụ Bá thết đãi cơm rượu, thịt gà, khi ra về còn được cho một đồng bạc mua thuốc chữa vết thương. "Chí Phèo vô cùng hả hê"

2 - Như vậy, lần này, Chí Phèo đến nhà Bá Kiến với động cơ đập đầu ăn vạ và có bao hàm cả sự trả thù. Qua đây, Nam Cao cũng hé mở cho người đọc thấy được bao điều.

3. a - Về phía nạn nhân, qua lần "gặp gỡ" đầu tiên này, tính cách tha hoá lưu manh của Chí Phèo đã bộc lộ một cách khá đầy đủ trước mặt dân làng Vũ Đại. Đâu còn hình ảnh anh canh điền khoẻ mạnh về thể xác, lành mạnh về tâm hồn như mới ngày nào. Sau 7, 8 năm biệt tích trở về, Chí Phèo không còn là con người hiền lành như xưa nữa, mà đã trở thành một tên côn đồ, hung hẵn, sẵn sàng đâm chém, rạch mặt ăn vạ. Nhìn cảnh Chí Phèo vừa rạch mặt, vừa kêu làng, chúng ta càng thấm thía một sự thực: nhà tù của chế độ thực dân  đã làm tha hoá biến chất con người lao động một cách khủng khiếp.

- Về phía bọn thống trị, kẻ thủ phạm mà hiện thân là Bá Kiến, qua cảnh này và cũng là cảnh đầu tiên Bá Kiến xuất hiện trước người đọc. Quan sát việc lão ứng xử với Chí Phèo, chúng ta thấy Bá Kiến hiện nguyên hình là một tên cường hào, địa chủ, một tên cáo già lọc lõi, lắm mưu nhiều kế và rất thâm hiểm. Sự ngọt ngào và cách cư xử khôn khéo của cụ Bá đã xoa dịu được cơn giận của Chí Phèo làm cho "Chí Phèo mềm nhũn". Chí Phèo từ chỗ hung hăng xông đến nhà Bá Kiến tuyên bố quyết liều chết với bố con lão, đến chỗ "hả hê ra về", trở thành chỗ đầy tớ tay chân cho Bá Kiến.

- Hiện tượng nói trên cũng là một hiện tượng khá mỉa mai chua sót mà có thật trong xã hội cũ. Nhiều người

lao động bị áp bức khi đã trở thành lưu manh thì chỉ biết phản ứng một cách mù quáng, liều lĩnh và dễ bị bọn thống trị mua chuộc lợi dụng. Vạch ra được điều đó chứng tỏ ngòi bút của Nam Cao thật giàu tính hiện thực.

(Ý II Lần thứ hai):

a - Sau khi hết tiền uống rượu, đến mua quỵt bà hàng rượu, Chí Phèo lại ngật ngưỡng say đến nhà Bá Kiến tuyên bố "đến để đòi nợ cụ Bá". Gặp Bá Kiến, với điệu bộ gần như hiền lành, Chí Phèo xin cụ Bá "cho con đi ở tù" và nếu không được "thì con phải đâm chết dăm ba thằng để được đi ở tù". Bá Kiến đã xúi Chí Phèo đến nhà Đội Tảo để đòi món nợ 50đ cho cụ Bá. Chí Phèo nhận đi ngay. May "Đội Tảo ốm liệt giường", các bà vợ đã bí mật giấu chồngđưa chơ Chí Phèo. Thế là "Chí Phèo vênh vênh ra về, hắn thấy oai thêm bậc nữa. Hắn tự đắc: anh hùng làng này cóc thằng nào bằng ta". Bá Kiến đưa cho Chí Phèo 5đ và một vườn chuối vừa mới cắm thuế của một người trong làng. Thế là từ đây, Chí Phèo mặc nhiên trở thành tay sai đắc lực cho Bá Kiến.

b - Về phía nạn nhân: ở lần gặp gỡ này, ta thấy tính cách Chí Phèo đã có một bước biến đổi. Đó là Chí Phèo càng dấn sâu vào con đường lưu manh và trở thành công cụ lợi hại cho lão cường hào cáo già độc ác. Nhưng mặt khác trong lời cầu khẩn của Chí Phèo: "Xin cho đi ở tù...đi ở tù còn có cái mà ăn, bây giờ về làng, một thước đất cắm dùi cũng không có chả làm gì nên ăn", ta có thể thấy trong đáy sâu tâm hồn Chí Phèo luôn luôn chất chứa một nỗi xót xa cho thân phận mình. Qua chi tiết này, tác phẩm cũng đã nói lên được tình trạng cùng cực không có lối thoát của người nông dân lao động nghèo. Ở tù về, tứ cố vô thân, vô điền thổ, cảnh ngộ đã đẩy người dân vào vòng tội lỗi.

c - Về phía bọn thống trị: Cũng ở lần gặp gỡ thứ hai này, bản chất gian hùng, nham hiểm của con cáo già Bá Kiến đã được tô đậm thêm một mức nữa. Khi biết được Chí Phèo đến để xin đi ở tù, và nếu không được thì sẽ đâm chết dăm ba thằng, con cáo già đó đã có một giải pháp rất cao tay. Bằng một vài lời khích bác nhẹ nhàng, Bá Kiến đã đẩy Chí Phèo vào một cái bẫy: mượn tay Đội Tảo để giết Chí Phèo và ngược lại. Đó là một thủ đoạn rất gian hùng. 

(Ý III: Lần thứ ba):
1 - Lần này Chí Phèo đến nhà Bá Kiến với một tâm trạng đặc biệt, khác hẳn hai lần trước. Đó là khi bị Thị Nở cự tuyệt, hắn lại uống rượu và rồi xách dao ra đi. Hắn không rẽ vào nhà Thị Nở như dự định ban đầu, mà đến thẳng nhà Bá Kiến. Dưới chân Chí Phèo hôm nay, không hẵn là bước chân của kẻ say rượu, mà đúng là bước chân của kẻ vừa say, vừa tỉnh. Chí Phèo tỉnh vì ý thức nhân phẩm đã trở về. Tình yêu thương mộc mạc và chân thành của Thị Nở đã làm thức dậy bản chất lương thiện của Chí Phèo "Hắn thèm lương thiện. Hắn muốn làm hoà với mọi người biết bao!" Câu trả lời của Thị Nở sẽ quyết định số phận của hắn: được công nhận quyền làm người hay mãi mãi bị đày đoạ trong kiếp sống thú vật? Chí Phèo hồi hộp hy vong. Nhưng cánh cửa hy vọng vừa hé mở thì đã bị đóng sầm ngay lại. Vì bà cô của Thị Nở không cho Thị đâm đầu dđ lấy một thằng đã bị xã hội khai trừ. Mọi người đã quen coi Chí Phèo là con quỹ dữ từ lâu rồi. Hôm nay, linh hồn Chí Phèo đã trở về, nhưng mọi người không nhận ra. Thế là Chí Phèo rơi vào một tấn bi kịch tinh thần đau đơn: Thèm lương thiện mà bị xã hội lạnh lùng cự tuyệt.

- Quặn quại trong đau khổ và tuyệt vọng, Chí Phèo càng thấm thía tội ác của kẻ đã cướp cả nhân tính lẫn nhân hình của mình là Bá Kiến. Nên hôm nay Chí Phèo ra đi với sự thôi thúc của lòng căm thù, của thái độ kiên quyết đòi lại gương mặt và tâm hồn đã bị xã hội cuớp mất. Trước Bá Kiến, lần này Chí Phèo có một tư thế và cách nói năng chững chạc, quyết đoán và chủ động hơn. Bá Kiến ngạc nhiên đến sửng sốt: "Thôi cầm lấy vậy! Tôi k hông còn hơn". Chí Phèo lại vênh mặt lên, nói một cách rất kiêu ngạo: "Tao đã bảo tao k hông cần tiền". Bá Kiến nói mỉa mai và hỏi Chí: "Giỏi! Hôm nay mới thấy anh k hông đòi tiền. Thế thì anh cần gì?". Chí Phèo dõng dạc nói: "Tao muốn làm người lương thiện”. Bá Kiến lại mỉa mai “Ồ tưởng gì! Tôi chỉ cần anh lương thiện cho thiên hạ nhờ”. Chí Phèo lắc đầu: "Không được! Ai cho tao lương thiện?""Làm thế nào cho mất được những vết mảnh chai trên mặt này?

Tao không thể là người lương thiện nữa. Biết không? Chỉ còn một cách...". Chỉ còn một cách, đó là Chí Phèo "Xông vào văng dao tới....vừa chém túi bụi vừa k êu làng thật to". Và sau khi giết Bá Kiến, hắn đã quay lại tự kết liễu cuộc đời mình "Hắn giẫy đành đạch ở giữa bao nhiêu là máu tươi".

3 - a- Hành động giết Bá Kiến hôm nay của Chí Phèo không phải là hành động giết người của một Chí Phèo lưu manh, mà là hành động lấy máu rửa hờn của một người nông dân đã thức tỉnh về quyền sống. Như thế là Nam Cao đã nhìn thấy dưới đáy tâm hồn con quỷ dữ làng Vũ Đại vẫn chưa tắt hết ngọn lửa căm thù giai cấp. Khám phá ra điều ấy chứng tỏ con mắt nhân đạo của Nam Cao rất tinh đời. Giết xong Bá Kiến, Chí Phèo cũng quay lại tự sát. Bởi ý thức nhân phẩm đã trở về, Chí Phèo không bằng lòng kiếp sống thú vật nữa. Chí Phèo không chịu trách nhiệm về cái chết của mình, mà suy cho cùng thủ phạm chính là Bá Kiến, là toàn bộ cái xã hội thực dân phong kiến bất công tàn bạo vô nhân đạo lúc bấy giờ. Cái chết của Chí là một bản kết tôi sâu sắc cái xã hội đã bức tử sự sống, dồn ép sự sống.

b- Phản ứng quyết liệt dữ dội của Chí Phèo trên đây cho thấy hình như đằng sau những luỹ tre xanh tưởng như thanh bình yên ả:

"Thong thả nhân gian nghỉ việc đồng


Lúa thì con gái mướt như nhung

Đầy vườn hoa bưởi hoa cam rụng

Ngào ngạt ong bay bượn lượn vòng"

(Nguyễn Bính)

vẫn luôn luôn tiềm ẩn mâu thuẩn giai cấp gay gắt nghìn đời giữa người nông dân và địa chủ. Mối mâu thuẩn ấy không thể điều hoà, càng nén nó xuống thì càng bùng lên dữ dội. Ngòi bút hiện thực sắc sảo của Nam Cao đã phát hiện ra cái quy luật ấy.

4 - Sau khi Chí Phèo chết, chắc gì hiện tượng Chí Phèo đã chấm dứt? Chi tiết kết thúc câu chuyện thật có ý nghĩa: Khi nghe tin Chí Phèo chết, Thị Nở nhìn nhanh xuống bụng và thấy thoáng hiện ra "Cái lò gạch cũ bỏ k hông, xa nhà cửa, và vắng người lại qua". Rất có thể từ cái lò gạch ấy, một Chí Phèo con ngỗ ngược hơn bố nó lại ra đời để nối nghiệp. Điều đó chưa có gì đảm bảo. Nhưng có điều chắc chắn là chừng nào ở nông thôn, còn có bọn cường hào thì chừng ấy còn nảy sinh ra hiện tượng Chí Phèo. Giá trị hiện thực sâu sắc và độc đáo của ngòi bút Nam Cao còn được thể hiện từ cái quy luật nghiệt ngã đó.

5 - Tóm lại ba lần "gặp gỡ" giữa Chí Phèo và Bá Kiến là những lần đụng đầu quyết liệt giữa hai tính cách kể thống trị và người áp bức, bị đầy đoạ đến mức không còn là người nữa. Tác phẩm đã phản ánh được một vấn đề quan trọng bức xúc trong đời sống hiện thực nông thôn thời ấy: xã hội phong kiến thực dân đã đầy đoạ làm tha hoá con người. Và khi ý thức nhân phẩm đã trở về thì lại bị xã hội lạnh lùng cự tuyệt, để phải tự huỷ diệt cuộc sống của mình. Nam Cao đã vạch trần được tội ác khủng khiếp đó và lên tiếng kêu cứu nhằm bảo vệ lấy nhân phẩm của con người, hãy tiêu diệt hoàn cảnh phi nhân tính. Nam Cao đồng cảm và chia sẽ với những nạn nhân đau khổ đồng thời tìm thấy dưới đáy tâm hồn tưởng như u mê cằn cỗi vẫn lấp lánh ánh sáng nhân phẩm; vẫn cháy bỏng một niềm khát khao được sống lương thiện.

Kết luận:Đó chính là giá trị hiện thực và nhân đạo vừa độc đáo, vừa sâu sắc, vừa mới mẻ,vừa rộng lớn của tác phẩm "Chí Phèo". Vì thế "Chí Phèo" xứng đáng là một trong những kiệt tác của nền văn học Việt Nam thế kỷ XX.
Kenhdaihoc.com cảm ơn bài viết của giáo viên Nguyễn Quang Ninh
Read more…

Ôn thi ĐH- Bài thơ tây tiến - Quang Dũng

19:34 |
ÔN THI ĐẠI HỌC BÀI TÂY TIẾN - QUANG DŨNG (Phân tích bài thơ Tây Tiến)

Xem thêm
Phân tích 14 câu thơ đầu trong bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
Phân tích khổ thơ sau trong bài "Tây Tiến" của tác giả Quang Dũng
Phân tích "Tây Tiến" của Quang Dũng

Phân tích đoạn thơ sau trong bài Tây Tiến (Quang Dũng) :
Doanh trại bừng lên hội đuốc, hoa
Kia em xiêm áo tự bao giờ

Khèn lên man điệu nàng e ấp

Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ



Người đi Châu Mộc chiều sương ấy

Có thấy hồn lau nẻo bến bờ

Có nhớ dáng người trên độc mộc

Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa

BÀI THAM KHẢO

Quang Dũng là nghệ sĩ đa tài: viết văn, làm thơ, vẽ tranh, soạn nhạc… nhưng thành công nhất vẫn là thơ ca. Các tập thơ tiêu biểu của Quang Dũng được bạn đọc biết đến nhiều như “Mây đầu ô”, “Mùa hoa gạo”… Nhưng tên tuổi của Quang Dũng có lẽ đã gắn liền với bài thơ Tây Tiến. Bài thơ ra đời vào năm 1948 in trong tập “Mây đầu ô” là bài thơ tiêu biểu nhất của thơ ca kháng chiến chống Pháp. Bài thơ có giá trị nội dung và nghệ thuật đặc sắc mà tiêu biểu là đoạn thơ sau đây:
“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa

Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”

Tây Tiến là một phân hiệu bộ đội được thành lập đầu năm 1947. Thành phần chủ yếu là thanh niên trí thức Hà Nội. Nhiệm vụ của họ là phối hợp với bộ đội Lào bảo vệ biên giới phía Tây. Năm 1948, Tây Tiến giải thể để thành lập trung đoàn 52. Quang Dũng cũng chuyển sang đơn vị khác. Sau khi rời đơn vị cũ chưa được bao lâu Quang Dũng đã sáng tác bài thơ này. Đoạn thơ ta đang phân tích là đoạn thơ thứ hai trong bài Tây Tiến.

Bốn câu đầu, nhà thơ mang đến cho người đọc không khí tươi vui của đêm liên hoan văn nghệ đậm tình quân dân.

Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa


Kia em xiêm áo tự bao giờ

Khèn lên man điệu nàng e ấp

Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ

“Doanh trại” là nơi đóng quân của Tây Tiến cũng là nơi diễn ra lễ hội văn hóa đậm đà tình quân dân. Đồng bào dân tộc đã tụ họp về đây để sinh hoạt và góp vui tinh thần với bộ đội Tây Tiến. Từ “Bừng” gợi cảm giác ấm áp, gợi niềm vui lan tỏa. Đêm rừng núi thành đêm hội. Ngọn đuốc nứa, đuốc lau thành “đuốc hoa” (“Đuốc hoa” là hoa chúc – cây nến đốt lên trong phòng cưới, đêm tân hôn) . Ở đây, “đuốc hoa” có ý nghĩa là gợi không khí ấm cúng gợi niềm vui, niềm hạnh phúc trong lòng các chiến sĩ . “Bừng” chỉ ánh sáng của đuốc hoa, của lửa trại sáng bừng lên; cũng còn có nghĩa là tiếng khèn, tiếng hát, tiếng cười nói tưng bừng rộn rã. Tố Hữu khi nhớ về Việt Bắc cũng từng viết về đêm liên hoan: “Nhớ sao lớp học i tờ/ Đồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoan”. Có thể hình dung đêm hội mà Quang Dũng viết trên đây như một đám cưới tập thể.

Từ “Kìa em” trong câu thơ thứ hai thể hiện sự ngạc nhiên, ngỡ ngàng của lính Tây Tiến trước vẻ đẹp của cô gái vùng cao trong trang phục “xiêm áo” lộng lẫy cùng dáng vẻ “e ấp” rất thiếu nữ. Quang Dũng phát hiện ra vẻ đẹp rực rỡ của cô gái bằng cả niềm yêu, niềm say đến cảm phục. Yêu say từ vóc dáng đến trang phục. Chính trang phục truyền thống đậm đà bản sắc văn hóa của các thiếu nữ Tây Bắc càng tôn vinh lên vẻ đẹp của họ. Quang Dũng không khỏi không thán phục đến ngạc nhiên tr­ước vẻ đẹp ấy. Em trở thành hạt nhân của bức tranh với vẻ đẹp xứ lạ phư­ơng xa. Những thiếu nữ Mường, những thiếu nữ Thái, những cô gái Lào xinh đẹp, duyên dáng “e ấp”, xuất hiện trong bộ xiêm áo rực rỡ. Cũng có thể hiểu người lính đang đóng giả con gái trong những trang phục dân tộc rất độc đáo, tạo tiếng cười vui cho đêm văn nghệ.

Ngỡ ngàng nữa là tiếng khèn “man điệu”. Khèn là một loại nhạc cụ của người dân tộc miền núi Tây Bắc còn “man điệu” là một điệu nhạc “lạ” đặc trưng văn hoá của những con người nơi đây. Và hòa vào tiếng khèn ngất ngây ấy là điệu múa Lam vông quyến rũ của những cô gái Lào đã “xây hồn thơ” trong lòng các chàng lính trẻ. Chính cái lạ ấy làm đắm say tâm hồn những chàng trai Tây Tiến gốc Hà Nội hào hoa. Chính trong không khí của âm nhạc, vũ điệu ấy đã chắp cánh cho tâm hồn những ngư­ời lính Tây Tiến thăng hoa, mọi mỏi mệt như bị đẩy lùi, thêm vào đó là lòng yêu đời, yêu miền đất lạ . Chính vì thế mọi cảm giác mỏi mệt, mọi vất vả đều tan biến. Thay vào đó là niềm lạc quan, yêu đời nâng bước họ mạnh mẽ hơn trên con đường hướng về “Viên Chăn xây hồn thơ”. Từ đó, ta có thể thấy được rằng các chiến sĩ của chúng ta dù trong những giờ phút vui vẻ, thoải mái nhất thì tâm hồn của họ vẫn luôn hướng về lí tưởng cách mạng cao đẹp.

Bốn câu sau là khung cảnh chia tay trên nền sông nước Tây Bắc vừa thực vừa mộng hoang vắng, tĩnh lặng, buồn thi vị. Cả bốn câu là cảnh sắc Tây Bắc gợi cảm giác mênh mang, huyền ảo:
Ngư­ời đi Châu Mộc chiều s­ương ấy

Có thấy hồn lau nẻo bến bờ

Có nhớ dáng ng­ười trên độc mộc

Trôi dòng n­ước lũ hoa đong đưa.

So với bốn câu thơ trên là hình ảnh không khí đêm lễ hội tưng bừng hoà hợp với ánh sáng lung linh và tâm hồn trẻ trung, yêu đời của các chiến sĩ Tây Tiến thì bốn dòng thơ tiếp theo, Quang Dũng đưa người đọc đến với hình ảnh của con người và núi rừng Tây Bắc trong một buổi chiều sương ... Một không gian bảng lảng khói s­ương như­ trong cõi mộng cứ thế hiện ra. Thiên nhiên Tây Bắc hiện lên theo chiều hướng nhẹ hoá. Cái dữ dội, khốc liệt được đẩy lùi đi và thay vào đó là những hình ảnh nhẹ nhàng và thơ mộng. Hình ảnh đầu tiên là hình ảnh chiều sương cho ta thấy nét đặc trưng vốn có của núi rừng nơi đây. Nhưng sương ở đây ko phải là sương lấp, sương che hay sương phủ mà là ''Người đi Châu Mộc chiều sương ấy''. Nó gợi màu sắc bảng lảng, sương khói vừa có nỗi buồn man mác. Đại từ ''ấy'' làm rõ nghĩa hơn cho từ chiều sương để nhấn mạnh rằng đây là một buổi chiều sương rất đặc biệt, chiều sương trong nỗi nhớ đã thành kỷ niệm nên tình người cũng man mác, bâng khuâng!

Đoạn thơ đậm màu sắc hội họa. Cái thực của khí trời Tây Bắc, cái mộng của không khí bảng lảng sư­ơng khói hiện lên nh­ư một miền cổ tích. Có lẽ chất họa sĩ của Quang Dũng đã ăn vào thơ ở đoạn này. Nét bút phác thảo của Quang Dũng thật là tài hoa. Chỉ một vài nét chấm phá vậy mà cái hồn của cảnh vật và con người hiện lên thật sinh động đầy sức cuốn hút.

Sông nước hoang dại như một bờ tiền sử, bên bờ lau lách và tác giả đã cảm nhận những cánh lau qua hai từ vô cùng tinh tế, đó là ''hồn lau''... gợi cảm giác hoang vắng, tĩnh lặng, giàu chất thơ sâu lắng vừa có chút gì đó thiêng liêng phảng phất chút tâm linh rừng núi. “Nẻo bến bờ” có nghĩa là : nẻo – lối đi. Nẻo bến bờ là nhìn đâu cũng thấy mênh mang hồn lau. “Hồn lau” - những cây lau không còn vô tri vô giác mà có linh hồn. Phải là một hồn thơ nhạy cảm, tinh tế, tài hoa và lãng mạn mới cảm nhận được vẻ đẹp nên thơ ấy.

“Ngàn lau cười trong nắng


Hồn của mùa thu về

Hồn của mùa thu đi

Ngàn lau xao xác trắng”

(Chế Lan Viên)

Không gian nên thơ ấy làm nền cho ngư­ời thơ xuất hiện: Giữa hình ảnh thiên nhiên Tây Băc hiện lên đầy sức sống và lãng mạn thì hình ảnh con người nơi đây hiện lên mang một vẻ đẹp khỏe khoắn, bất khuất, kiên cường: ''Có nhớ dáng người trên độc mộc''. Điệp ngữ “có thấy – có nhớ” luyến láy như chạm khắc vào lòng người một nỗi nhớ da diết, cháy bỏng khôn nguôi. Độc mộc là một loại thuyền được làm từ thân cây gỗ lớn, dài. Dáng người trên độc mộc ở đây có thể là hình ảnh mềm mại, uyển chuyển của những cô gái Thái, Mèo đang đưa các chiến sĩ vượt sông. Cũng có thể hiểu là dáng hình kiêu dũng của các chiến sĩ Tây Tiến đang chèo chống con thuyền vượt sông , vượt thác dữ tiến về phía trước. Tất cả những hình ảnh ấy đều đã để lại trong lòng của Quang Dũng một hình ảnh khó phai nhoà...

Thiên nhiên Tây Bắc vốn nổi tiếng với con sông Mã, một dòng sông đã chứa trong nó biết bao dữ dội. Nhưng ở đây, dòng sông Mã đã hiện lên với sự nhẹ nhàng đến kỳ lạ. Những cánh hoa rừng ko bị ''dồi lên dập xuống'' mà là “Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa''. Từ láy “đong đưa” được sử dụng rất gợi: Cánh hoa rừng như cũng quyến luyến con người. Cánh hoa rừng như bàn tay vẫy chào người lính, tiễn người lính vượt sông đi đánh giặc.

Đoạn thơ để lại một dấu ấn đẹp đẽ về thơ ca kháng chiến mà sự thành công là kết hợp hài hòa giữa khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn. Bên cạnh đó còn có các yếu tố nghệ thuật: Ngôn ngữ thơ mộc mạc, giản dị, hồn thơ mang đậm chất lãng mạn, hào hoa. Những từ ngữ như “có nhớ”, “có thấy” luyến láy, khắc họa thêm nỗi nhớ: lưu luyến, bồi hồi. Tất cả đã tạo nên một bài thơ hay và giàu giá trị.

Tóm lại, tám câu thơ của khổ hai đã vẽ nên khung cảnh thiên nhiên , con người miền Tây với vẻ đẹp mĩ lệ , thơ mộng , trữ tình . Chất nhạc , chất hoạ , chất mơ mộng hoà quyện chặt chẽ với nhau trong đoạn thơ tạo nên một thế giới của cái đẹp .Từng nét vẽ của Quang Dũng đều mềm mại , tinh tế , uyển chuyển . Đây là đoạn thơ bộc lộ rõ nhất sự tài hoa , lãng mạn của Quang Dũng trong tổng thể bài thơ .
Kenhdaihoc.com cảm ơn bài viết của giáo viên PHAN DANH HIẾU, Biên Hòa, Đồng Nai
Read more…

Suy nghĩ của em về câu nói " Bàn tay tặng hoa hồng bao giờ cũng phảng phất hương thơm"

19:25 |
Suy nghĩ của em về câu nói " Bàn tay tặng hoa hồng bao giờ cũng phảng phất hương thơm".
Xem thêm

BÀI LÀM
Mở bài:
Thế giới mà chúng ta đang sống hôm nay đang cần lắm những bàn tay của con người sẵn sàng mở rộng lòng nhân ái. Nếu hạnh phúc và niềm vui được sẻ chia thì nỗi buồn sẽ bị dập tắt còn hạnh phúc và niềm vui thì sẽ được nhân đôi. Con người khi trao đi yêu thương cho người khác, tức là họ cũng đã nhận lại yêu thương cho mình, và con người đó luôn có được những điều tốt đẹp cho bản thân và cho những người xung quanh nữa . Có lẽ đó cũng chính là nội dung của câu ngạn ngữ mà người Bungari muốn gửi tặng đến tất cả chúng ta “Bàn tay tặng hoa hồng bao giờ cũng phảng phất hương thơm”.

Thân bài:

1. 
Giải thích

Hoa hồng
 là loài hoa đẹp nhất trong các loài hoa, nó là biểu tượng cho tình yêu và hạnh phúc từ bao đời nay. Hoa hồng đây chính là ẩn dụ cho tình yêu thương, sự sẻ chia. Còn hương thơm chính là điều tốt đẹp mà ta đón nhận được khi ta trao đi tình yêu thương đó. Hoa hồng có mùi hương rất đậm nên trao cho người khác rồi mà hương thơm vẫn còn đọng mãi trên bàn tay ta. Nói như thế có nghĩa là hương thơm là hệ quả của việc trao tặng hoa hồng. Nói một cách khái quát, khi ta trao những điều tốt đẹp cho người khác là lúc lòng ta rộng mở, tình yêu thương của ta sẽ trở thành sức mạnh là thứ hương thơm làm sảng khoái cho ta và biết bao người . Chính việc làm tốt đẹp của ta là bông hoa ngát hương cho cuộc sống thêm tươi đẹp. Từ đó thế giới sẽ bớt đi bất hạnh và bệnh vô cảm sẽ bị đẩy lùi.

2. 
Chứng minh tính tích cực của câu ngạn ngữ: 
Câu phương ngôn đưa ra một quan niệm sống tích cực: Sống là phải biết quan tâm sẻ chia, dâng tặng người bên ta, quanh ta những điều tốt đẹp “Sống là cho đâu chỉ nhận riêng mình”.
Người biết trao tặng hoa hồng, trao tặng yêu thương là người giàu có về tâm hồn. Giúp đỡ người khác, mang đến hạnh phúc cho người khác chính là cách để tô đẹp tâm hồn mình. Bạn nên nhớ rằng, khi bạn đang vui thì trên thế giới này có biết bao người đang buồn, khi bạn đang hạnh phúc thì quanh bạn đang có biết bao người rơi vào hoàn cảnh bất hạnh, thiếu may mắn. Nếu cuộc sống của bạn chỉ nghĩ cho riêng mình thì thế giới quanh bạn chỉ toàn những điều ích kỷ. Nhưng nếu bạn biết trao đi yêu thương chính là bạn đang chữa căn bệnh vô cảm cho chính mình vì “Nghèo nàn về vật chất dễ chữa, nghèo nàn về tâm hồn khó chữa” . Bạn đừng sợ khi yêu thương trao đi, nó không mất đi đâu bạn ạ mà ngược lại: Yêu thương trao đi là yêu thương nhận lại mãi mãi. Ta mang đến cho người khác sự tốt đẹp, chính là đang mang lại điều cao đẹp cho tâm hồn mình. Biểu hiện của yêu thương có muôn hình vạn trạng. Yêu thương tràn ngập khắp nơi, có nhiều cách để trao tặng. Đấy có thể là một ánh mắt quan tâm lo lắng hay cử chỉ ân cần với một người dưng khi người ấy đau buồn hay mệt mỏi. Đó có thể là nhường một chỗ ngồi cho người già trên xe Buýt hay dắt một em bé ăn xin qua đường… Điều mà ta đón nhận lại từ những người ấy phải chăng là ánh mắt cảm ơn là tình yêu - trái tim của người mà ta trao tặng? Và cũng có khi chỉ đơn giản là cảm giác hạnh phúc, hài lòng về điều mình làm được cho người khác? Dù sao đi nữa, những thứ vô hình ấy mà ta nhận lại sẽ mãi là bất diệt. Tiền bạc, địa vị vật chất tiêu dần sẽ hết nhưng yêu thương càng tiêu đi, càng cho đi càng lớn dần lên. Người giàu có nhất trên thế giới chính là người có được nhiều hương thơm nhất từ những đóa hồng mà mình đã trao đi.


Cho và nhận ở đây không phải là một sự trao đổi qua lại một cách bình thường. Bởi khi cho đi những điều tốt đẹp, ta cũng cảm thấy sự thanh thản, niềm vui, niềm hạnh phúc trong tâm hồn ta, góp phần làm cho đời thêm đẹp, thêm vui. Chia sẻ niềm vui với mọi người là nhân đôi niềm vui đó.

Những đóa hồng yêu thương ấy của trái tim con người đã viết nên bao câu chuyện cổ tích giữa đời thường. Ca sĩ Ngọc Sơn, người từng bị cộng đồng mạng tẩy chay vì những hành động vui “thái quá” . Có ai ngờ được rằng đằng sau con người ấy lại là một trái tim giàu nghĩa, giàu tình. Anh là nhà từ thiện hàng đầu trong làng giải trí Việt: hàng tháng anh phát hàng tấn gạo cho người nghèo; hơn 10 năm qua, mỗi tháng anh ủng hộ cho quỹ trẻ em nghèo thành phố Hồ Chí Minh với số tiền là 20 triệu đồng; năm 2011 vừa qua, anh làm đơn xin hiến xác cho y học để các sinh viên nghành y có điều kiện học tập tốt hơn. Anh còn xuất hiện trong hầu hết các chương trình ca nhạc từ thiện gây quỹ cho người nghèo… anh chính là tấm lòng thơm thảo của thành phố mang tên Bác.


Cô sinh viên tên Thúy trong chương trình “Viết tiếp ước mơ của Thúy”. Dù bị bệnh ung thư giai đoạn cuối nhưng Thúy vẫn chiến đấu với bệnh tật để đem trái tim yêu đời của mình để kết nối với muôn triệu trái tim con người Việt Nam cùng nhau làm nên chương trình thiện nguyện: Vì trẻ em bị bệnh ung thư. Cũng như vậy, tôi lại nhớ đến câu chuyện về bạn Nguyễn Thúy Vy (Đà Nẵng), bị bệnh ung thư gan giai đoạn cuối nhưng Vy vẫn thi ĐH và sau kỳ thi ĐH năm 2010, Vy đã đến bệnh viên Đa khoa Đà Nẵng, tình nguyện hiến trái tim mình cho bệnh viện để kéo dài sự sống cho những người mắc chứng bệnh tim. Cùng đó là những anh chị sinh viên, học sinh, thanh niên tham gia phong trào Hiến máu nhân đạo. Một giọt máu hồng là một sự sống được tiếp nối, một giọt máu hồng là một tấm lòng ngan ngát hương thơm trao đi để kéo dài sự sống cho biết bao nhiêu người.


Văn học là tấm gương phản ánh cuộc sống.

Câu chuyện trong Chiếc lá cuối cùng của O’ Henry thật cảm động; khi mà tình yêu thương được lên ngôi nơi một phố trọ nghèo, cái phố trọ ấy thật gần gũi bởi cuộc đời đã bước vào văn chương. Cụ Berhman hi sinh cả sự sống của mình để đem lại cho Giônxi niềm tin vào cuộc sống- đúng hơn là sự sống của chính cô. Cô gái ấy đã chiến thắng được cái chết và lại tiếp tục thực hiện những ước mơ của mình. Chính là nhờ từ “đóa hồng” của cụ Berhman. Điều kỳ diệu ấy đã khiến cho sự ra đi của cụ mới nhẹ nhàng, thanh thản vô cùng. Ông họa sĩ già ra đi trong sự mãn nguyện bởi tình cảm yêu thương, lòng biết ơn của Giônxi và Xiu dành cho cụ mãi là đoá hồng ngát hương giữa đời. Anh thanh niên không tuổi không tên trong lặng lẽ Sa Pa mãi là một khúc nhạc của lòng hi sinh và sự hiến dâng cho đời. Họ mãi mãi là những con người ban phát hoa hồng cho những ai đang cần ban tặng.

3. Bài học nhận thức và hành động.
Câu nói: “Bàn tay tặng hoa hồng bao giờ cũng phảng phất hương thơm” là lời nhắc nhở, cảnh tỉnh cho con người về một quan niệm nhân sinh. Hãy trao tặng tất cả những gì bạn có, đừng chần chừ hay e ngại bởi những gì bạn nhận được còn nhiều hơn thế nữa. Ai cũng có quyền trao đi hoa hồng, ai cũng có quyền nhận lấy hương thơm… Hãy mở lòng ra với mọi người, với cuộc đời.Vậy mà, một điều đáng buồn là không phải ai cũng hiểu được ý nghĩa của yêu thương. Nhiều bạn trẻ suốt ngày không lo học tập mà chỉ biết chơi bời, học đòi lối sống thời thượng. Họ ăn chơi sa đọa, tiêu tiền như nước vào các trò chơi vô bổ như: quán Bar, vũ trường, đua xe… để từ đó, tương lai và tuổi trẻ của họ cũng tuột xuống dưới con dốc của cuộc đời. Thói ăn chơi ấy là căn nguyên của Bệnh vô cảm đang lấn áp và có nguy cơ biến con người thành tộc ác. Đúng như một hiền triết phương Tây đã từng nói “Nơi lạnh lẽo nhất không phải là Bắc cực mà là nơi thiếu tình thương của con người”. Vậy tại sao chúng ta không góp phần đem yêu thương để đẩy lùi sự vô cảm ấy?

Kết bài:

Với bản thân tôi,
 được sống trên cõi đời này là một hạnh phúc lớn lao. Cuộc sống đã ban tặng cho tôi bao điều kỳ diệu. Có lẽ vì vậy mà bản thân tôi luôn tâm niệm rằng: cuộc sống là sự sẻ chia và yêu thương. Nếu như chúng ta ai cũng sẻ chia, yêu thương thì thế giới này sẽ không còn khổ đau và bất hạnh mà chỉ toàn là hạnh phúc và niềm vui. Xin được lấy bốn câu thơ của Tố Hữu thay cho lời kết:

Xin gửi lại bạn đời yêu quý nhất
Còn mấy vần thơ một nắm troThơ gửi bạn đường tro bón đấtSống là cho, chết cũng là cho
Kenhdaihoc.com rất cảm ơn bài viết của thầy giáo Phan Danh Hiếu- Biên Hòa- Đồng Nai
Read more…

Nghị luận - Ngưỡng mộ thần tượng là một nét đẹp văn hóa, nhưng mê muội thần tượng là một thảm họa

19:15 |
ĐỂ RA: Suy nghĩ của anh/chị về ý kiến sau: “Ngưỡng mộ thần tượng là một nét đẹp văn hóa, nhưng mê muội thần tượng là một thảm họa”
Xem thêm
Những bài nghị luận văn học lớp 12 (Phần II)
Những bài nghị luận xã hội lớp 12 ( Phần I )

HƯỚNG DẪN

I. Mở bài


Trong cuộc sống của mỗi người, ai cũng có cho mình một thần tượng để ước mơ và vươn tới. Thần tượng ấy có thể là một doanh nhân thành đạt, một ca nhạc sĩ, hay chỉ là người mẹ, người cha trong gia đình. Nhưng có một bộ phận lớp trẻ bây giờ lại mê mẩn những thần tượng Kpop để rồi quên ăn, quên ngủ, quên cả học hành. Vì vậy có ý kiến cho rằng “Ngưỡng mộ thần tượng là một nét đẹp văn hóa, nhưng mê muội thần tượng là một thảm họa”. Điều đó đúng chăng ?

II. Thân bài

1. Giải thích:


- Ngưỡng mộ thần tượng là sự tôn kính, mến phục nồng nhiệt dành cho những đối tượng được xem là hình mẫu lí tưởng hoặc có quyền năng đặc biệt, có sức cuốn hút mạnh mẽ đối với cá nhân hay cộng đồng; mê muội thần tượng là sự say mê, tôn sùng một cách mù quáng, thiếu tỉnh táo trước thần tượng.

- Về nội dung, ý kiến này đề cập đến tính hai mặt của việc say mê thần tượng: nếu ngưỡng mộ đúng mức là tích cực, thì ngưỡng mộ quá mức là tiêu cực và có thể còn gây ra hậu quả khôn lường.

2. Bàn luận
- Ngưỡng mộ thần tượng là một nét đẹp văn hóa : Vì ngưỡng mộ thần tượng thể hiện nhu cầu văn hóa cao của con người: nhu cầu được sống trong những tình cảm cao cả, nồng nhiệt; nhu cầu được hướng tới, vươn tới những tầm cao, những đỉnh cao sáng giá của đời sống. Ví dụ, ngưỡng mộ các doanh nhân thành đạt mình có thể học tập ở họ đức tính cần cù trong nghiên cứu và lao động, học cách làm giàu, học cách vượt qua khó khăn thử thách. Học ở người bố người mẹ đức tính nhẫn nại, đức hi sinh thầm lặng vì gia đình. Nói chung, ngưỡng mộ thần tượng giúp ta sống nhân bản hơn. Ông Đoàn Nguyên Đức, người giàu nhất Việt Nam từng thi rớt ĐH đến 4 lần, từng làm nhiều việc nặng nhọc để kiếm sống. Nhưng nhờ đọc báo biết đến Bill Gate, ông đã nỗ lực vượt khó vươn lên và trở thành tỷ phú bậc nhất của Việt Nam.

- Ngưỡng mộ thần tượng là một ứng xử văn hóa, biểu hiện ở các phương diện: thái độ trân trọng mến phục; hành động tôn vinh cổ vũ; ngôn ngữ ca ngợi tán dương. Khi mến mộ thần tượng, chúng ta thường sống trong những tình cảm luôn hướng tới những điều cao đẹp. Làm gì sai trái hoặc học hành sa sút ngay lập tức mình cũng cảm thấy có lỗi . Từ đó tự mình phải biết sửa chữa và khắc phục. Tình cảm ta dành cho thần tượng là thứ tình cảm ngưỡng mộ chân thành và khâm phục chứ không phải là thứ tình cảm ồn ào, xô bồ.

- Mê muội thần tượng là một thảm họa : Vì mê muội thần tượng là trạng thái mù quáng trong nhận thức, thái quá trong tình cảm, không còn khả năng suy xét, phân biệt đúng sai, lẫn lộn về giá trị; mê muội thần tượng còn dẫn đến hành động sai lầm quá khích, gây ra những hậu quả tệ hại cho bản thân và xã hội. Năm 2010 khi danh thủ Braxin là Ronandinho sang Việt Nam, bạn trẻ ở Hà Nội đã xô vào, nắm tóc, kéo áo thần tượng làm cho thần tượng phải nhờ an ninh can thiệp. Xem nhóm Super Junio biểu diễn ở Sài Gòn, nhiều Fan cuồng đã khóc lóc, ngất xỉu… Đó còn là cách ăn mặc dị hợm, cách đi đứng, cách để tóc của một bộ phận giới trẻ thật chẳng giống người chút nào.

- Việc mù quáng chạy theo thần tượng hay khuyếch trương thần tượng quá mức đều là biểu hiện của sự mê muội thần tượng, đều là những thái độ và ứng xử thiếu lành mạnh, thậm chí thiếu văn hóa, có thể gây ra những hậu quả khôn lường.

3. Bài học nhận thức và hành động :

- Cần có nhận thức đúng đắn về việc ngưỡng mộ thần tượng và lường được những hậu quả của sự mê muội để có thái độ và cách ứng xử phù hợp, làm cho tâm hồn phong phú hơn, nâng tầm văn hóa cho bản thân, từ đó phấn đấu vươn tới những tầm cao của đời sống.

- Biết chế ngự những cảm xúc say mê thái quá trước thần tượng, không chạy theo thần tượng một cách mù quáng; phê phán mọi biểu hiện mê muội thần tượng trong cuộc sống hàng ngày, trước hết là trong học đường.

III. Kết bài
Mỗi người có một thần tượng để ước mơ và vươn tới. Cần biết tôn trọng thần tượng bằng cách có những hành động, suy nghĩ chin chắn và cao đẹp. Đó mới thực sự là ngưỡng mộ. Đừng vì quá đam mê và thần tượng hóa mà biến mình thành kẻ dị hợm, khác người không tốt cho bản thân và xã hội. Mỗi người chúng ta cần ý thức hơn về điều này để cuộc sống luôn văn minh hiện đại mà không đánh mất đi những giá trị cổ truyền tốt đẹp.
Read more…

Ôn thi TN - ĐH Đất nước - Nguyễn Khoa Điềm

19:11 |
ĐỀ RA: Phân tích đoạn thơ sau trong bài thơ Đất Nước của Nguyễn KHoa Điềm.


Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa” mẹ thường hay kể.
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo, cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng
Đất Nước có từ ngày đó…
----------------------------------
Lưu ý: Rất dễ ra Tốt Nghiệp 2013
Xem thêm:
Những cảm hứng về đất nước bài thơ Đất nước của Nguyễn Đình Thi và Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm
Nét mới trong cảm nhận về Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm
Đọc hiểu đoạn trích Đất nước (Nguyễn Khoa Điềm)
Đất nước - Nguyễn Khoa Điềm
Đất Nước qua dòng suy tưởng của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm
HƯỚNG DẪN PHÂN TÍCH
(
Giáo viên Phan Danh Hiếu. Biên Hòa. Đồng Nai)

I. MỞ BÀI

Đất Nước là nguồn cảm hứng bất tận của thơ ca và nghệ thuật. Mỗi nhà thơ đều có những cảm nhận rất riêng về Đất Nước, bởi thế Đất Nước, Tổ quốc hiện lên muôn màu muôn vẻ. Nếu như các nhà thơ cùng thời thường chọn điểm nhìn về Đất Nước bằng những hình ảnh kỳ vĩ, mỹ lệ hay cảm hững về lịch sử qua các triều đại thì Nguyễn Khoa Điềm lại chọn điểm nhìn gần gũi, quen thuộc bình dị để miêu tả về Đất Nước. Đến với bài thơ Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm ta như đứng trước muôn màu văn hóa, truyền thống, phong tục tươi đẹp vô ngần. Vẻ đẹp ấy được hiện lên sâu sắc nhất qua chín câu thơ đầu.
Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa” mẹ thường hay kể.
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo, cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng
Đất Nước có từ ngày đó…

II. THÂN BÀI


1. Khái quát trước khi phân tích: 
Đất nước là nguồn cảm hứng bất tận của thơ ca. Ở bài thơ này, Nguyễn Khoa Điềm đã chọn điểm nhìn gần gũi để miêu tả một đất nước tự nhiên, bình dị mà không kém phần thiêng liêng, tươi đẹp. Hình ảnh đất nước trong đoạn thơ đầu hiện lên muôn màu muôn vẻ, sinh động lạ thường, lắng đọng trong tâm tưởng ta qua những nét đẹp về phong tục, tập quán, văn hóa, truyền thống mang đậm dấu ấn con người Việt.


2. 
Câu thơ mở đầu được viết theo thể câu khẳng định “Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi. Với cách vào đầu rất tự nhiên ấy, nhà thơ khẳng định: Đất Nước đã có từ rất lâu, có trước khi ta sinh ra vì thế khi ta lớn lên thì ta đã thấy Đất Nước. Bốn chữ cuối của câu thơ vang lên đầy tự hào “Đất Nước đã có rồi”. Đó là lời khẳng định chắc nịch về sự trường tồn của đất nước qua mấy ngàn năm lịch sử dựng nước và giữ nước.


3. Hai câu thơ tiếp theo nhà thơ diễn tả cụ thể về sự ra đời của đất nước
.


Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa” mẹ thường hay kể.
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn

- Câu thơ thứ nhất, tác giả cho rằng Đất Nước có trong cái “ngày xửa ngày xưa”. Nghĩa là Đất Nước có từ rất lâu đời, có tự ngày xưa. Đất Nước có từ trước khi những câu truyện cổ ra đời rồi khi những câu truyện cổ có mặt trong đời sống tinh thần của ta, ta lại thấy Đất Nước hiện diện trong truyện cổ. Đó là Đất Nước của một nền văn học dân gian đặc sắc với những câu chuyện cổ tích, thần thoại, truyền thuyết. Chính những câu chuyện cổ và những bài hát ru thuở ta còn nằm nôi là nguồn sữa ngọt lành chăm bẵm cho ta cái chân thiện mĩ và lớn lên ta biết yêu đất nước con người. Về ý nghĩa của truyện cổ với đời sống tinh thần con người, nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ đã xúc động mà viết nên:

Tôi yêu truyện cổ nước tôi
Vừa nhân hậu lại tuyệt vời sâu xa
Thương người rồi mới thương ta
Yêu nhau dù mấy cách xa cũng gần
(Truyện cổ nước mình)
- Câu thơ thứ hai, nhà thơ diễn tả Đất Nước có trong “miếng trầu bây giờ bà ăn”. Gợi nhắc phong tục ăn trầu của người Việt. Câu thơ gợi nhớ về câu truyện cổ tích “Sự tích trầu cau” được xem là xưa nhất trong những câu truyện cổ. Tục ăn trầu cũng từ câu truyện này mà nên. Như vậy là thẩm thấu vào trong miếng trầu dung dị ấy là 4000 năm phong tục, 4000 năm dân ta gìn giữ phong tục ăn trầu. Miếng trầu là biểu tượng của tình yêu, vật chứng cho lứa đôi cũng là biểu tượng tâm linh của người Việt. Từ phong tục ăn trầu, tục nhuộm răng đen cũng ra đời:

Những cô hàng xén răng đen

Cười như mùa thu tỏa nắng
(Hoàng Cầm)

4. Câu thơ thứ tư, nhà thơ diễn tả sự trưởng thành của Đất Nước. Đó là sự trưởng thành từ truyền thống đánh giặc giữ nước qua hình tượng Thánh Gióng và cây tre: “
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc


- Câu thơ gợi nhắc cho ta nhớ đến truyền thuyết Thánh Gióng, chàng trai Phù Đổng Thiên Vương nhổ tre làng Ngà đánh giặc, gợi lên vẻ đẹp khỏe khoắn của tuổi trẻ Việt Nam kiên cường, bất khuất:
Ta như thuở xưa thần Phù Đổng
Vụt lớn lên đánh đuổi giặc Ân
Sức nhân dân khoẻ như ngựa sắt
Chí căm thù ta rèn thép thành roi
Lửa chiến đấu ta phun vào mặt
Lũ sát nhân cướp nước hại nòi
(Tố Hữu)
- Truyền thống vẻ vang ấy đã theo suốt chặng đường dài của lịch sử dân tộc mãi đến hôm nay trong thời đại chống Mỹ bao tấm gương tuổi trẻ đã anh dũng chiến đấu bảo vệ giống nòi. Phải chăng, đó chính là vẻ đẹp của các chị, các anh đã tạc vào lịch sử Việt Nam dáng đứng kiêu hùng bất khuất: Võ Thị Sáu, Trần Văn Ơn, Nguyễn Văn Trỗi… Vẻ đẹp ấy song hành với hình ảnh cây tre Việt Nam. Cây tre hiền hậu trên mỗi làng quê. Nó như là sự đồng hiện những phẩm chất trong cốt cách con người Việt Nam: thật thà chất phác, đôn hậu thuỷ chung, yêu chuộng hoà bình nhưng cũng kiên cường bất khuất trong tranh đấu. Tre đứng thẳng hiên ngang bất khuất cùng chia lửa với dân tộc "Một cây chông cũng tiến công giặc Mỹ ", bởi:
"Nòi tre đâu chịu mọc cong
Chưa lên đã nhọn như chông lạ thường".
5Bốn câu thơ tiếp theo nhà thơmang đến cho người đọc vẻ đẹp thuần phong mỹ tục của con người Việt:
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo, cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng
- Đó là vẻ đẹp giản dị của người phụ nữ Việt Nam. Không ai khác là những người mẹ với phong tục “búi tóc sau đầu” (tóc cuộn thành búi sau gáy tạo cho người phụ nữ một vẻ đẹp nữ tính, thuần hậu rất riêng). Nét đẹp ấy gơi nhớ ca dao:
Tóc ngang lưng vừa chừng em bới
Để chi dài cho rối lòng anh
- Nguyễn Khoa Điềm tiếp tục gắn dòng suy tưởng đến con người ngàn đời cư trú, lao động, chiến đấu trên mảnh đất Việt để giữ gìn tôn tạo mảnh đất thân yêu. Ở đó đạo lí ân nghĩa thủy chung đã trở thành truyền thống ngàn đời của dân tộc: "Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn". Ý thơ được toát lên từ những câu ca dao đẹp:
“Tay bưng đĩa muối chén gừng
Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau”

- Thành ngữ “gừng cay muối mặn” được vận dụng một cách đặc sắc trong câu thơ nhẹ nhàng mà thấm đượm biết bao ân tình. Nó gợi lên được ân nghĩa thủy chung ở đời: gừng càng già càng cay, muối càng lâu năm càng mặn, con người sống với nhau lâu năm thì tình nghĩa càng đong đầy. Có lẽ chính vì vậy mà Đất Nước còn ghi dấu ấn của cha của mẹ bằng Hòn trống mái, núi Vọng Phu, Hòn Trống Mái… đi vào năm tháng.


- Câu thơ "Cái kèo cái cột thành tên", gợi nhắc cho người đọc nhớ đến tục làm nhà cổ của người Việt. Đó là tục làm nhà sử dụng kèo cột giằng giữ vào nhau làm cho nhà vững chãi, bền chặt tránh được mưa gió, thú dữ. Đó cũng là ngôi nhà tổ ấm cho mọi gia đình đoàn tụ bên nhau; siêng năng tích góp mỡ màu dồn thành sự sống. Từ đó, tục đặt tên con “cái Kèo, cái Cột” cũng ra đời.


- Đâu chỉ có những vẻ đẹp trên, dân tộc ta còn có truyền thống lao động cần cù, chịu thương chịu khó “Hạt gạo phải một nắng hai sương xay giã dần sàng”. 


Thành ngữ “Một nắng hai sương” gợi nên sự cần cù chăm chỉ của cha ông ta những ngày long đong, lận đận trong đời sống nông nghiệp lạc hậu. Đó là truyền thống lao động cần cù, chịu thương chịu khó. Các động từ “Xay – giã – dần – sang” là quy trình sản xuất ra hạt gạo. Để làm ra hạt gạo ta ăn hằng ngày, người nông dân phải trải qua bao nắng sương vất vả gieo cấy, xay giã, giần sàng. Thấm vào trong hạt gạo bé nhỏ ấy là mồ hôi vị mặn nhọc nhằn của giai cấp nông dân. Bởi vậy, ăn hạt gạo dẻo thơm ta phải nhớ công ơn người đã làm ra nó:
Ai ơi bưng bát cơm đầy
Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần.

6. Câu thơ cuối cùng khép lại một câu khẳng định với niềm tự hào: “Đất Nước có từ ngày đó”.
-“Ngày đó” là ngày nào ta không rõ nhưng chắc chắn “ngày đó” là ngày ta có truyền thống, có phong tục tập quán, có văn hóa mà có văn hóa nghĩa là có đất nước. Đúng như lời Bác dặn trước lúc đi xa “Rằng muốn yêu tổ quốc mình, phải yêu những câu hát dân ca”. Dân ca, ca dao là đặc trưng văn hóa của Việt Nam, muốn yêu Đất Nước trước hết phải yêu và quý trọng văn hóa nước nhà. Bởi văn hóa chính là Đất Nước. Thật đáng yêu đáng quý, đáng tự hào biết bao lời thơ dung dị, ngọt ngào của Nguyễn Khoa Điềm.

7. Nghệ thuật:


- Thành công của đoạn thơ trên là nhờ vào việc vận dụng khéo léo chất liệu văn hóa dân gian như phong tục ăn trầu, tục búi tóc, truyền thống đánh giặc, truyền thống nông nghiệp. Nhà thơ sáng tạo thành ngữ dân gian, ca dao tục ngữ, thành ngữ…Điệp ngữ Đất Nước được nhắc lại nhiều lần. Nhà thơ luôn viết hoa hai từ Đất Nước tạo nên sự thànhi ính, thiêng liêng… Tất cả làm nên một đoạn thơ đậm đà không gian văn hóa người Việt. Ngôn ngữ mộc mạc, giản dị, lời thơ nhẹ nhàng đúng giọng thủ thỉ tâm tình nhưng vẫn mang đậm hồn thơ triết lí.


III. KẾT BÀI

Tóm lại
, đoạn thơ ta vừa phân tích ở trên là đoạn thơ hay nhất trong bài thơ Đất Nước. Qua đoạn thơ, nhà thơ đã mang đến cho người đọc vẻ đẹp của một Đất Nước giàu văn hóa cổ truyền. Đất Nước của truyền thống, phong tục tươi đẹp mang đậm dấu ấn của tư tưởng Đất Nước của nhân dân.
Read more…

Ôn thi ĐH - Sóng - Xuân quỳnh

19:02 |
Phân tích giá trị nội dung và nghệ thuật trong đoạn thơ sau:

Dữ dội và dịu êm
Ồn ào và lặng lẽ
Sông không hiểu nổi mình
Sóng tìm ra tận bể

Ôi con sóng ngày xưa
Và ngày sau vẫn thế
Nỗi khát vọng tình yêu
Bồi hồi trong ngực trẻ

Trước muôn trùng sóng bể
Em nghĩ về anh, em
Em nghĩ về biển lớn
Từ nơi nào sóng lên?

- Sóng bắt đầu từ gió
Gió bắt đầu từ đâu?
Em cũng không biết nữa
Khi nào ta yêu nhau
(Sóng – Xuân Quỳnh)


Xem thêm
Ôn thi ĐH - Phân tích hình tượng sóng trong bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh
Phân tích hình tượng sóng trong bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh
Sóng- Xuân Quỳnh
Sóng của Xuân Quỳnh - Một trái tim yêu

HƯỚNG DẪN PHÂN TÍCH
(Giáo viên Phan Danh Hiếu)


I. MỞ BÀI 
Trong các nhà thơ Việt Nam hiện đại, Xuân Quỳnh là một trong số những nhà thơ của tình yêu. Chị viết nhiều, viết hay về tình yêu với những tác phẩm tiêu biểu như: “Sóng”, “Thuyền và Biển”, “Hoa dọc chiến hào”… trong đó “Sóng” là một bài thơ đặc sắc rất tiêu biểu cho phong cách thơ tình yêu của Xuân Quỳnh. Bài thơ Sóng để lại giá trị nội dung và nghệ thuật đặc sắc mà tiêu biểu là bốn khổ thơ sau đây:
Dữ dội và dịu êm

Khi nào ta yêu nhau

II. THÂN BÀI
1. Khái quát trước khi phân tích: Bài thơ Sóng được Xuân Quỳnh sáng tác tại biển Diêm Điền năm 1967, sau được in trong tập “Hoa dọc chiến hào”. Bài thơ mang âm hưởng của những con sóng biển và những con sóng lòng đang khao khát tình yêu. Bài thơ có hai hình tượng cùng song hành và hòa điệu, đó là “Sóng” và “Em”. Hai hình tượng này đã tạo nên nét đáng yêu cho bài thơ.

2.
 Bốn câu đầu là những cung bậc của sóng và cũng là những cung bậc trong tình yêu của người phụ nữ:

Dữ dội và dịu êm
Ồn ào và lặng lẽ
Sông không hiểu nổi mình
Sóng tìm ra tận bể
Hai câu thơ đầu với nghệ thuật đối: “Dữ dội - dịu êm”; “Ồn ào - lặng lẽ” đã làm hiện lên vẻ đẹp của những con sóng biển ngàn đời đối cực. Những lúc biển động, bão tố phong ba thì biển “dữ dội - ồn ào” còn những giây phút sóng gió đi qua biển lại hiền hòa trở về “dịu êm - lặng lẽ”.
- Nghệ thuật ẩn dụ ở hai câu đầu là ẩn dụ cho tâm trạng người con gái khi yêu. Xuân Quỳnh đã mượn nhịp sóng để thể hiện nhịp lòng của chính mình . Tình yêu của người phụ nữ cũng không chịu yên định mà đầy biến động, khao khát. Đúng như vậy, tình yêu của người con gái nào bao giờ yên định bởi có lúc họ yêu rất dữ dội, yêu mãnh liệt hết mình với những nhớ nhung, đôi khi ghen tuông giận hờn vô cớ. Nhưng cũng có lúc họ lại thu mình trở về với chất nữ tính đáng yêu, họ “lặng lẽ”, “dịu êm” ngắm soi mình và lặng im chiêm nghiệm.
- Hai câu tiếp theo tác giả sử dụng nghệ thuật nhân hóa để nói đến hành trình đi tìm tình yêu của sóng:
Sông không hiểu nổi mình
Sóng tìm ra tận bể
- Ba hình ảnh “sông”, “sóng”, “bể” như là những chi tiết bổ sung cho nhau : sông và bể làm nên đời sóng, sóng chỉ thực sự có đời sống riêng khi ra với biển khơi mênh mông vô tận. Sóng không cam chịu một cuộc sống đời sông chật hẹp, tù túng nên nó làm cuộc hành trình ra biển khơi bao la để thỏa sức vẫy vùng. Mạch sóng mạnh mẽ như bứt phá không gian chật hẹp để khát khao một không gian lớn lao. Hành trình tìm ra tận bể chất chứa sức sống tiềm tàng, bền bỉ để vươn tới giá trị tuyệt đích của chính mình. Tình yêu của Xuân Quỳnh cũng vậy, tình yêu của người phụ nữ cũng không thể đứng yên trong một tình yêu nhỏ hẹp mà phải vươn lên trên tất cả mọi sự nhỏ hẹp tầm thường để được sống với những tình yêu cao cả, rộng lớn, bao dung. Đây là một quan niệm tình yêu tiến bộ và mạnh mẽ của người phụ nữ thời đại. Có thấy ngày xưa quan niệm tình yêu cổ hủ “cha mẹ đặt đâu con ngồi đó” thì mới thấy hết được cái mới mẻ trong quan niệm tình yêu của Xuân Quỳnh: Người phụ nữ chủ động tìm đến với tình yêu để được sống với chính mình.

3. Khổ thơ thứ hai, nhà thơ khẳng định: Tình yêu mãi mãi là khát vọng của tuổi trẻ, nó làm bồi hồi, xao xuyến rung động trái tim của lứa đôi, của con trai con gái, của em và anh.

Ôi con sóng ngày xưa
Và ngày sau vẫn thế
Nỗi khát vọng tình yêu
Bồi hồi trong ngực trẻ
- Hai câu thơ đầu, từ “Ôi!” cảm thán là nỗi thổn thức của trái tim yêu. Nghệ thuật đối lập “ngày xưa” – “ngày sau” càng làm tôn thêm nét đáng yêu của sóng. Sóng là thế muôn đời vẫn thế vẫn “dữ dội ồn ào” vẫn “dịu êm lặng lẽ” như tình yêu tuổi trẻ có bao giờ đứng yên:
Có những khi vô cớ
Sóng ào ạt xô thuyền
Bởi tình yêu muôn thuở
Có bao giờ đứng yên
(Xuân Quỳnh)
- Hai câu thơ sau, nhà thơ khẳng định tình yêu luôn song hành với tuổi trẻ. Bởi tuổi trẻ sinh ra là để yêu : “Làm sao sống được mà không yêu/ Không nhớ không thương một kẻ nào” (Xuân Diệu). Tình yêu là khát vọng là ước mơ của bao người. Sẽ như thế nào nếu thế giới này không có tình yêu lứa đôi ? Tôi tin cuộc sống chẳng còn gì ý nghĩa. Tình yêu luôn làm cho tuổi trẻ phải bồi hồi, điên đảo . Xuân Quỳnh đã từng viết “Những ngày không gặp nhau/Lòng thuyền đau rạn vỡ”. Có yêu nhau mới thấy được cồn cào của vị nhớ, mới thấy được thế nào là bồi hồi trong ngực trẻ.

4. Khổ thơ thứ ba, Xuân Quỳnh băn khoăn nghĩ suy về anh và em, về nơi tình yêu bắt đầu :

Trước muôn trùng sóng bể
Em nghĩ về anh, em
Em nghĩ về biển lớn
Từ nơi nào sóng lên?
- Câu thơ đầu, Xuân Quỳnh nhìn về biển khơi “Trước muôn trùng sóng bể”. Nhìn những con sóng vô hồi vô hạn đang hướng vào bờ chị chợt bâng khuâng nghĩ suy về anh và em “Em nghĩ về anh, em” rồi lại hướng nghĩ suy về biển lớn “Em nghĩ về biển lớn” . Những nghĩ suy ấy tất cả là để đặt một câu hỏi lớn: Từ nơi nào sóng lên ?

5. Khổ thơ thứ tư, nhà thơ lý giải về nguồn gốc của sóng của gió, và qua đó tự bâng khuâng về khởi đầu của tình yêu:

Sóng bắt đầu từ gió
Gió bắt đầu từ đâu
Em cũng không biết nữa
Khi nào ta yêu nhau
- Câu thơ đầu nhà thơ tự lý giải nguồn gốc của sóng là từ gió “Sóng bắt đầu từ gió” nghĩa là sóng biển là khởi đầu từ gió, nhờ gió mà có sóng lên. Nhưng ở câu thơ thứ hai nhà thơ lại không lý giải được nguồn gốc của gió “Gió bắt đầu từ đâu”. Đến lúc này thì đúng là nhà thơ phân vân thật sự và đành lắc đầu bất lực “Em cũng không biết nữa”.
- Lí giải được ngọn nguồn của sóng thì dễ bởi “Sóng bắt đầu từ gió” nhưng để hiểu “Gió bắt đầu từ đâu” thì thi nhân lại ấp úng “Em cũng không biết nữa”. Cũng như tình yêu của anh và em nó đến rất bất ngờ và tự nhiên bởi “tình yêu đến trong đời không báo động”. Câu thơ “Khi nào ta yêu nhau” như một cái lắc đầu nhè nhẹ, rất ư là nữ tính. Kì lạ quá, diệu kì quá, em và anh yêu nhau bao giờ nhỉ ? Câu hỏi này muôn đời không ai lí giải nổi nhất là những bạn trẻ đang yêu và đắm say trong men tình ái. Tình yêu là vậy, khó lí giải, khó định nghĩa. Xuân Diệu – ông hoàng của thi ca tình yêu cũng đã từng băn khoăn khi định nghĩa về tình yêu “Đố ai định nghĩa được tình yêu/ Có khó gì đâu một buổi chiều/Nó chiếm hồn ta bằng nắng nhạt/Bằng mây nhè nhẹ gió hiu hiu”. Chính vì không thể lí giải rõ ngọn ngành nên tình yêu vì thế mà trở nên đẹp và là cái đích để cho muôn người đi tìm và khám phá. Càng khám phá càng thú vị, càng khám phá càng đẹp.

6. Nghệ thuật: 
Thành công của đoạn thơ nói riêng và bài thơ nói chung đó là nhờ vào một số thủ pháp nghệ thuật: Thể thơ năm chữ tạo âm điệu của những con sóng biển. Nghệ thuật đối lập, nhân hóa, ẩn dụ… Tất cả đã tạo nên những vần thơ tình yêu hay nhất mọi thời đại.


III. KẾT BÀI


Tóm lại
, bốn khổ thơ mở đầu bài thơ Sóng là ba khổ thơ hay nhất của bài thơ. Qua đó người đọc cảm nhận được trái tim yêu của Sóng và người phụ nữ rất nồng nàn say đắm, mãnh liệt cuộn trào nhưng cũng rất nữ tính đáng yêu. Đoạn thơ giúp ta hiểu được tình cảm và hồn thơ Xuân Quỳnh, dù trong mọi hoàn cảnh như thế nào thì tiếng thơ của chị vẫn là tiếng thơ hồn hậu với những khát vọng hạnh phúc đời thường đúng như lời chị viết:

Chỉ riêng điều được sống cùng nhau
Niềm vui sướng với em là lớn nhất
Trái tim nhỏ nằm trong lồng ngực
Giây phút nào tim chẳng đập vì anh!
Read more…