Nghị luận "Truyền thống uống nước nhớ nguồn của dân tộc"

00:00 |
Tục ngữ là một bộ phận trong kho tàng văn học dân gian, được xem là túi khôn của nhân loại,bởi vì đó là những bài học trí tuệ sâu sắc của người xưa được đúc kết bằng những câu nói ngắn gọn.Chúng ta có thể tìm thấy ở đấy những kinh nghiệm sống trong thực tế và những bài học về luân lý đạo đức.Ngay từ xa xưa,cha ông ta vẫn thường nhắc nhở thế hệ đi sau phải có tình cảm trân trọng biết ơn đối với những người đã tạo dựng thành quả cho mình.Lời khuyên nhủ ấy được gởi gắm trong câu tục ngữ giàu hình ảnh:
“ Uống nước nhớ nguồn ”
Chúng ta có suy nghĩ như thế nào khi đọc lời khuyên dạy của tiền nhân ?
“Nguồn” là nơi xuất phát của dòng nước,mạch nước từ núi,từ rừng ra suối,ra sông rồi đổ ra biển cả mênh mông,không bao giờ cạn.Thứ nước khởi thủy đó trong mát,tinh khiết nhất.Khi ta uống dòng nước làm vơi đi cơn khát thì phải biết suy ngẫm đến nơi phát xuất dòng nước ấy.Từ hình ảnh cụ thể như vậy,người xưa còn muốn đề cập đến một vấn đề khái quát hơn.”Nguồn” có thể được hiểu chính là những người đã tạo ra thành quả về vật chất,tinh thần cho xã hội.Còn “uống nước” đó chính là sử dụng,đón nhận thành quả ấy.Câu tục ngữ nhằm khuyên nhủ chúng ta phải biết ơn những người đã tạo dựng thành quả cho mình trong cuộc sống.



Thật vậy,trong cuộc sống,không có hiện tượng nào là không có nguồn gốc,không có thành quả nào mà không có công lao của một ai đó tạo nên,tất cả mọi thành quả đều phần lớn do công sức lao động của con người làm ra.Ta không thể tự tạo mọi thứ từ đôi tay,khối óc của mình cho nên ta phải nghĩ đến những ai đã tạo ra nó.Mặt khác,người tạo ra thành quả phải đổ mồ hôi công sức,thậm chí phải chịu phần mất mát hy sinh.Trong khi đó người thụ hưởng thì không bỏ ra công sức nào cả,vì lẽ đó chúng ta phải biết ơn họ.Đó là sự công bằng trong xã hội.

Hơn nữa,lòng biết ơn sẽ giúp ta gắn bó với cha anh,với tập thể,tạo ra một xả hội thân ái kết đoàn.Cuộc sống sẽ tốt đẹp biết bao nếu truyền thống ấy được lưu giữ và xem trọng.Con người sống ân nghĩa sẽ được người khác quý trọng, được xã hội tôn vinh.

Ngược lại,thiếu tình cảm biết ơn,sống phụ nghĩa quên công,con người trở nên ích kỉ,vô trách nhiệm,những kẻ ấy sẽ bị người đời chê trách,mỉa mai,bị gạt ra ngoài lề xã hội và lương tâm của chính họ sẽ kết tội.

Bên cạnh đó,ta thấy “Uống nước nhớ nguồn” còn là đạo lí của dân tộc,là lẽ sống tốt đẹp từ bao đời nay cho nên thế hệ đi sau cần kế thừa và phát huy.Bài học đạo đức làm người ấy cứ trở đi trở lại trong kho tàng văn học dân gian: “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây”, “Uống nước nhớ người đào giếng”, “Đường mòn ân nghĩa chảng mòn”, “Ai mà phụ nghĩa quên công,thì đeo trăm cánh hoa hồng chẳng thơm”…

Thật đáng chê trách cho những ai còn đi ngược lại với lẽ sống cao thượng ấy.Sống dưới mái ấm gia đình,có những người con vẫn chưa cảm nhận hết công sức của đấng sinh thành,họ thản nhiên tiêu xài hoang phí những đồng tiền phải đánh đổi bằng những giọt mồ hôi,nước mắt của cha mẹ,thậm chí còn có kẻ đã ngược đãi với cả những người đã tạo dựng ra mình.Dưới mái học đường,nhiều học sinh vẫn còn xao lãng với chuyện học hành.Đó là gì,nếu không phải là vô ơn với thầy cô?Trong xã hội cũng không ít kẻ “uống nước” nhưng đã quên mất “nguồn”.

Câu tục ngữ là lời khuyên nhủ chân tình:con người sống phải có đạo đức nhân nghĩa,thủy chung,vừa là lời ca ngợi truyền thống đạo lí lâu đời của dân tộc Việt.Nó còn là hồi chuông cảnh tỉnh đối với ai đã đối xữ một cách vô ơn,bạc nghĩa với những người đã tạo ra thành quả cho mình hưởng thụ.Học tập câu tục ngữ này,cụ thể là phải biết ơn,bảo vệ và sử dụng có hiệu quả những gì mà người khác tạo dựng.Là một người con trước hết ta phải biết khắc ghi công ơn sinh thành,dưỡng dục của cha mẹ,còn là một người học sinh, biết ơn công ơn dạy dỗ của các thầy cô giáo, sự giúp dỡ của tập thể lớp,trường.Sống trong cuộc đời,ta phải biết khắc ghi công ơn những ai đã cưu mang,giúp đỡ mình khi gặp hoạn nạn khó khăn.Suy rộng ra là con cháu vua Hùng,thuộc dòng dõi Lạc Hồng,ta phải biết tự hào về truyền thống đấu tranh anh dũng của dân tộc.Thừa hưởng cuộc sống tự do,thanh bình phải biết khắc ghi công ơn cua các anh hùng liệt sĩ,khi “bưng bát cơm đầy”,ta phải cảm hiểu”muôn phần đắng cay” của những người nông dân…Không chỉ biết ơn đối với những lớp người đi trước,ta còn phải ý thức quý trọng giữ gìn những giá trị mà quá khứ đã tạo nên bằng mồ hôi,nước mắt và xương máu,tiếp tục phát triển các thành quả của quá khứ.Nói như Bác: “Các vua Hùng đã có công dựng nước,bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”.Trong tưong lai,hãy đem tài năng của mình ra xây dựng quê hương,hàn gắn vết thương chiến tranh đó chính là cách “trả ơn” quý báo nhất.

Đồng thời còn phải biết đấu tranh chống lại những biểu hiện vô ơn “ ăn cháo đá bát”,có thế xã hội sẽ tốt đẹp hơn.Mỗi con người sẽ sống chan hòa với nhau bằng những tình cảm chân thành hơn.

Qua việc sử dụng câu tục ngữ ngắn gọn, ngôn ngữ giản dị,hình ảnh cụ thể mà ý nghĩa thật vô cùng sâu sắc,người xưa đã khuyên nhủ thế hệ đi sau phải biết nhớ ơn những ai đã tạo dựng thành quả cho mình trong cuộc sống để từ đó khéo léo nhắc nhở,cảnh tỉnh những kẻ còn có lối sống bất nghĩa vô ơn. Mặc dù trải qua bao thâm trầm của thời đại,ý nghĩa câu tục ngữ trên vẫn sống mãi với thời gian…Đọc lại lời dạy của tổ tiên,ta không khỏi tự nhủ với lòng mình:Không bao giờ trở thành kẻ sống thiếu trách nhiệm đối với xã hội,sống và làm việc xứng đáng với đạo lí và truyền thống dân tộc,sống chân thành trọn nghĩa trọn tình,có trứơc có sau.
Read more…

Phân tích bài thơ Chiều tối của Hồ Chí Minh

23:46 |
Chiều tối là bài thơ được viết trong thời điểm gần kết thúc của một chuyến chuyển lao. Bài thơ là một bức tranh vẽ cảnh chiều tối nơi núi rừng- cảnh đẹp bởi nó ánh lên sự sống ấm áp của con người.
Phân tích bài “ Chiều tối “ - Hồ Chí Minh
Phân tích bài thơ "Mộ" (Chiều tối) của Hồ Chí Minh
Phân tích bài thơ "Chiều tối" của Hồ Chí Minh
Qua đó, bộc lộ một tâm hồn thi nhân nhạy cảm trước vẻ đẹp của thiên nhiên, một tấm lòng nhân hậu đối với con người, một phong thái ung dung luôn hướng về sự sống, ánh sáng và tương lai. Hay nói đúng hơn đây là một thực thể của sự kết hợp hài hoà giữa màu sắc cổ điển và tinh thần hiện đại

Cảnh chiều tối là một đề tài quen thuộc của văn chương. Khung cảnh buổi chiều về tối thường dễ sinh tình vì thế, buổi chiều đã đi vào bao áng thơ kim cổ, làm nên những vần thơ tuyệt tác. Thơ chiều cổ điển thường man mác một nỗi buồn đìu hiu, hoang vắng trong sự tàn tạ của thời gian, hoặc trĩu nặng nỗi buồn tha hương lữ thứ. Ơ đây bằng vài nét chấm phá của bút pháp ước lệ tượng trưng tác giả đã dựng nên bức phông lớn làm nền cho cảnh chiều.

Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ,

Cô vân mạn mạn độ thiên không;

(Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ

Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không)


“Cánh chim” và “chòm mây” là hai hình ảnh quen thuộc thường xuất hiện trong thơ chiều xưa và nay. Cho nên, đó chỉ là hai hình ảnh của không gian mà đã mang theo ý nghĩa của thời gian. Cánh chim ở đây được lấy từ thế giới nghệ thuật cổ phương Đông. Trong thế giới thẩm mỹ ấy, hình ảnh cánh chim bay về rừng đã ít nhiều có ý nghĩa biểu tượng ước lệ diễn tả cảnh chiều: “Phi yến thu lâm”; “Quyện điểu quy lâm” là những nhóm từ thường thấy trong thơ chữ Hán. Trong “Truyện Kiều”, khi miêu tả cảnh chiều, Nguyễn Du đã điểm vào bức tranh hình ảnh cánh chim bay về rừng: “Chim hôm thoi thót về rừng”. Trong thơ Bà Huyện Thanh Quan cũng thế: “Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi” và Huy Cận lại cảm thấy bóng chiều như đang sà xuống từ cánh chim đang nghiêng dần về cuối chân trời: “Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa”. Hình như trong cảm nhận của các thi nhân xưa thì khi miêu tả cảnh chiều mà không có hình ảnh cánh chim thì bóng chiều chưa rõ.

Cánh chim trong thơ xưa thường chỉ là một chi tiết nghệ thuật thuần tuý để gợi tả cảnh chiều thế thôi và thường gợi nên cảm giác về sự xa xăm, phiêu bạt, chia lìa:

“Chúng điểu cao phi tận” – Lí Bạch

“Thiên sơn điểu phi tuyệt” – Liễu Tông Nguyên


chúng ta đều nhận thấy cánh chim trong thơ của Lí Bạch và Liễu Tông Nguyên đều “Phi tuyệt”, “Phi tận”. Tất cả đều không có điểm dừng mà ở vào trạng thái bay vào chốn xa xăm, vô tận, gợi lên một ý niệm siêu hình nào đó. Còn cánh chim trong bài thơ “Chiều tối” của Bác lại có phương hướng, điểm dừng, mục đích bay rõ ràng:

Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ

(Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ)


Như vậy, Bác đã đưa cánh chim từ thế giới siêu hình trở về với thế giới hiện thực. Ta nhận thấy trong cách nhìn của Bác là một cách nhìn đầy yêu thương, trìu mến trước biểu hiện nhỏ nhoi của sự sống. Nhìn cánh chim đang bay, Bác cảm nhận được sự mệt mỏi của đôi cánh sau một ngày đường hoạt động. Trong chiều sâu tâm hồn của Bác chính là lòng yêu thương sự sống, cảm quan của Bác chính là cảm quan nhân đạo.

Câu thơ thứ hai cũng mang đậm nét Đường thi. Nó rất gần với câu thơ: “Cô vân độc khứ nhàn” của Lí Bạch. Hình ảnh chòm mây cô độc trôi giữa bầu trời đã trở thành một mô tuýp quen thuộc trong thơ xưa, nó thường gợi lên cái cô độc thanh cao, sự phiêu diêu, thoát tục và nỗi khắc khoải của con người trước cõi hư không. Còn trong bài “Chiều tối” của Bác, hình ảnh chòm mây cô độc trôi nhè nhẹ qua bầu trời chỉ là một nét vẽ tạo nên cái không gian cao rộng của cảnh trời chiều nơi miền rừng núi. Bầu trời hôm ấy phải thật cao, thật trong xanh ta mới thấy được hình ảnh chòm mây cô độc ấy gợi nên hình ảnh cô độc nơi đất khách, quê người của Bác. Mỗi một chi tiết của cảnh chiều đều nhuốm màu tâm trạng. Cánh chim mỏi tìm về tổ ấm, còn người tù thì mệt mỏi sau một ngày đường mà vẫn chưa có được chỗ dừng chân. Chòm mây lẻ loi trôi lững lờ trên tầng không, còn người tù thì cô đơn giữa một buổi chiều nơi đất khách. Hai câu thơ đạt đến mức vi diệu của lối tả cảnh ngụ tình. Ơ đó ta bắt gặp một tâm hồn giàu cảm xúc trước thiên nhiên và sự sống. Từ đó ta thấy được một nghị lực phi thường và đó cũng chính là chất thép trong thơ của Bác.

Nếu như ở hai câu thơ đầu bằng bút pháp cổ điển Bác đã dựng nên bức phông lớn làm nền cho bức tranh, thì trong hai câu thơ sau, Bác tập trung làm nổi bật hình tượng trung tâm của bức tranh. Từ bút pháp cổ điển Bác chuyển hẳn sang bút pháp hiện đại.

Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc,

Bao túc ma hoàn, lô dĩ hồng

(Cô em xóm núi xay ngô tối,

Xay hết lò than đã rực hồng)


“xóm núi” là hình ảnh giản dị biểu tượng cho sự sống bình yên của con người. Xóm núi như đẹp hơn, ấm áp hơn với hình ảnh người thiếu nữ. Vẻ đẹp trẻ trung đầy sức sống của người thiếu nữ với tư thế lao động (xay ngô) trở thành tâm điểm của bức tranh thiên nhiên buổi chiều. Điều đáng lưu ý ở đây là hình tượng người thiếu nữ trong thơ Bác hoàn toàn khác với hình tượng người thiếu nữ trong thơ xưa. Người phụ nữ trong thơ xưa thì thường được ví như “Liễu yếu đào tơ” và sống trong cảnh “Phòng khuê khép kín”, chỉ biết “cầm, kì, thi, hoạ” là đủ. Còn người thiếu nữ trong thơ Bác thì gắn liền với công việc lao động bình dị, đời thường, khỏe khoắn đầy sức sống. Phải chăng chính cái sức sống ấy của người thiếụ nữ đã làm nên vẻ đẹp lung linh cho bức tranh.

Trong thơ xưa, những bức tranh vẻ cảnh chiều đều có bóng dáng con người nhưng sao lẻ loi, cô độc và hiu hắt quá. Con người ở đây mang nặng một nỗi niềm hoài cổ, một nỗi sầu muộn:

“Lom khom dưới núi tều vài chú,

Lác đác bên sông chợ mấy nhà”
(Qua Đèo Ngang - Bà Huyện Thanh Quan)


hay:

“Gác mái ngư ông về viễn phố,

Gõ sừng mục tử lại cô thôn”

(Chiều Hôm Nhớ Nhà - Bà Huyện Thanh Quan)


Còn con người trong thơ Bác, lại là con người lao động đầy sức sống. Chính hai từ “thiếu nữ” đã làm bừng lên sức sống của bức tranh. Cô gái miệt mài xay ngô và hình như cô không chú ý đến những gì xung quanh mình. Cối xay vẫn cứ quay và quay tít “ma bao túc” rồi “bao túc ma” và khi ngô đã xay xong “bao túc ma hoàn” thì cô mới nhìn thấy “lò than đã rực hồng”. Hình ảnh “lò than đã rực hồng” hiện lên trong đêm tối càng làm nổi bật hình ảnh người thiếu nữ. Toàn bộ cảnh thiên nhiên đang chìm trong màu xám nhạt chuyển sang màu tối. Cũng vì thế hình ảnh lò than rực hồng có sức lôi cuốn đặc biệt. Bài thơ kết thúc bằng chữ “hồng”, có thể nói đó chính là chỗ đẹp nhất của bài thơ. Đó chính là ánh lửa hồng của cuộc sống đầm ấm, hạnh phúc gia đình, ánh lửa hồng của sự sống, của niềm lạc quan. Chữ “hồng” đặt ở cuối bài thơ soi rõ vẻ đẹp của người thiếu nữ, toả ánh sáng và hơi ấm xua đi cái buồn vắng của bức tranh chiều tối nơi rừng núi.

Hai câu thơ đã cho ta thấy được cái nhìn ấm áp đầy yêu thương, trân trọng của Bác đối với con người lao động. Buổi “Chiều tối” nơi miền rừng núi quạnh hiu, hoang vắng, lẽ ra rất đỗi buồn bã, thê lương trước mắt người tù bị xiềng xích, bị giải đi với biết bao nỗi gian lao vất vả, nhưng trái lại đó là tiếng reo vui. Chữ “hồng” ở cuối bài đã làm nên tiếng reo vui ấy, tạo cho bài thơ âm hưởng nồng ấm, dạt dào.

“Chiều tối” là một tác phẩm đậm đà màu sắc cổ điển mà cũng rất hiện đại, thể hiện một cách tự nhiên và phong phú vẻ đẹp của hình ảnh người tù – thi sĩ, người chiến sĩ cộng sản Hồ Chí Minh. Bài thơ đã thể hiện tình yêu thiên nhiên tha thiết của Bác. Điều đặc biệt ở đây là cảm quan thiên nhiên của Bác gắn liền với cảm quan nhân đạo, cảm quan về sự sống.

Sưu tầm!
Read more…